Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những con chip lừng danh (st)

Collapse
X
 
  • Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những con chip lừng danh (st)

    Thấy bài viết này hay hay trên ddth (gốc từ pcworld) nên tha về đây chơi. Một số quá quen thuộc, một số từng học qua, một số chưa hề nghe tới tên. Hơi kỳ là không thấy có 8051 trong danh sách

    Signetics NE555 Timer

    Đó là mùa hè năm 1970, trong văn phòng chen giữa 2 nhà hàng Trung Hoa ở thị trấn Sunnyvale, California (Mỹ), nhà thiết kế chip Hans Camenzind làm việc với vai trò tư vấn cho công ty bán dẫn Signetics. Tình hình kinh tế khó khăn. Camenzind có vợ và 4 con, kiếm chưa đến 15.000 USD/năm, nên rất muốn phát minh cái gì đó có thể hái ra tiền.

    Và Camenzind đã tạo ra chip 555 - một IC đơn giản có thể làm việc như bộ đếm thời gian. Đến nay, 555 là con chip được bán chạy nhất trong ngành bán dẫn analog, hiện diện trong các thiết bị nhà bếp, đồ chơi, phi thuyền không gian và nhiều thứ khác. Có thể nói 555 là một trong những con chip xuất sắc nhất của mọi thời đại.

    "555 gần như đã không được chấp thuận chế tạo", Camenzind nhớ lại. Ông giờ đã 75 tuổi, vẫn còn thiết kế chip, dù không ở gần nhà hàng Trung Hoa nào nữa!

    Ý tưởng về chip 555 nảy sinh khi Camenzind đang làm việc trên hệ thống vòng lặp khóa pha. Với một vài điều chỉnh, hệ thống này có thể làm việc như bộ định thời gian đơn giản: kích hoạt và nó sẽ chạy trong một khoảng thời gian nhất định. Lúc đó không có chip nào giống như thế.

    Thoạt đầu, phòng kỹ thuật của Signetics từ chối ý tưởng này vì công ty đang bán linh kiện mà khách hàng có thể dùng để tạo bộ định thời gian có tính năng tương tự như 555. Camenzind không nản, ông đến gặp Art Fury, giám đốc tiếp thị của Signetics. May là Fury thích nó.

    Camenzind bỏ ra gần 1 năm thử nghiệm các bản thiết kế, vẽ các sơ đồ mạch trên giấy và tạo bản phim, "tất cả đều làm bằng tay". Thiết kế cuối cùng có 23 transistor, 16 trở kháng và 2 diod.
    Chip 555 gây chấn động khi ra mắt thị trường vào năm 1971. Năm 1975 Signectics sát nhập vào Philips Semiconductors, và sau đó NXP. Đã có hàng tỉ chip 555 được bán ra, đến nay chip này vẫn còn được dùng.

    Texas Instrument TMC0281 Speech Synthesizer

    Nếu không có TMC0281, E.T (sinh vật ngoài trái đất trong bộ phim nổi tiếng cùng tên) không thể "gọi về nhà”. TMC0281 là chip tổng hợp tiếng nói đầu tiên, đây chính là trái tim (hay cái miệng) của đồ chơi "học nói và đánh vần" (Speak & Spell) của Texas Instrument (TI). Trong bộ phim E.T, sinh vật ngoài trái đất dùng chip này để tạo thiết bị liên lạc liên hành tinh.

    Các biến thể của TMC0281 được dùng trong các máy chơi game của Atari và những chiếc ô-tô dòng K của Chrysler. Năm 2001, TI bán dòng chip tổng hợp tiếng nói cho Sensory, hãng này ngưng sản xuất vào cuối năm 2007. Nhưng nếu bạn cần thực hiện cuộc gọi cho khoảng cách rất xa, bạn có thể tìm thấy các con chip Speak & Spell trong tình trạng còn tốt trên eBay với giá khoảng 50USD.

    MOS Technology 6502 Microprocessor

    Ngưới chuyên gia có khuôn mặt mũm mĩm đặt con chip vào chiếc máy tính và khởi động khiến cả thế giới trở nên rộn ràng... Chuyên gia đó chính là Steve Wozniak, chiếc máy tính là Apple I, còn con chip là bộ vi xử lý 8-bit 6502 do MOS Technology phát triển. Con chip này đóng vai trò bộ não của những chiếc máy tính có ảnh hưởng mạnh về sau này như Apple II, Commodore PET và BBC Micro, không kể các hệ thống chơi game như Nintendo và Atari. Chuck Peddle, một thành viên tạo ra con chip này, nhớ lại lúc giới thiệu 6502 tại một cuộc triển lãm vào năm 1975: "Chúng tôi bỏ chip vào đầy 2 lọ thủy tinh, rồi tôi và vợ ngồi bán". Vậy là 6502 trở nên nổi tiếng. Lý do: 6502 không chỉ nhanh hơn chip của các hãng khác mà còn rẻ hơn, giá chỉ có 25USD trong khi 8080 của Intel và 6800 của Motorola giá gần 200USD.

    Theo Bill Mensch, người đã tạo ra 6502 cùng với Peddle, yếu tố đột phá ở chỗ "tập lệnh tối thiểu kết hợp với qui trình sản xuất tạo ra số lượng chip tốt gấp 10 lần so với đối thủ”. Có thể nói chính 6502 đã kéo giá của các bộ xử lý (BXL) xuống, mở màn cho cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Một số hệ thống nhúng hiện nay vẫn còn dùng chip này. Thú vị hơn, 6502 là bộ não điện tử của Bender, con robot hư hỏng trong bộ phim truyền hình "Futurama" được trình chiếu 1999.

    Texas Instruments TMS32010 Digital Signal Processor

    TMS32010 không phải là chip xử lý tín hiệu số (DSP) đầu tiên, danh hiệu này thuộc về DSP-1 của Western Electric được đưa ra vào năm 1980, nhưng nó là DSP nhanh nhất. Nó có thể thực hiện phép tính nhân trong 200 nano giây, một kỳ tích! Hơn nữa, nó có thể thực thi các câu lệnh cả từ ROM trong chip và RAM ngoài chip, trong khi các con chip cạnh tranh chỉ có các chức năng DSP lập trình sẵn. "Điều này cho phép phát triển chương trình (cho TMS32010) linh hoạt, giống như các bộ vi xử lý và vi điều khiển", theo Wand Gass, thành viên của nhóm thiết kế DSP, hiện vẫn làm việc cho TI. Với giá 500USD cho mỗi con chip, năm đầu TI chỉ bán được 1000 chip. Sau đó số lượng bán ra tăng vọt, và chip này được dùng trong các modem, thiết bị y tế và hệ thống quân sự. TMS32010 là chip đầu tiên trong dòng sản phẩm DSP phong phú đã và đang đem lại lợi nhuận cho TI.

    Fairchild Semiconductor µA741 Op-Amp

    Các chip khuếch đại tín hiệu (op-amp) có thiết kế thuộc loại analog. Bạn luôn có thể gắn các con chip này với nhau và gắn với hầu như bất cứ thứ gì để thỏa mãn yêu cầu. Các nhà thiết kế dùng chúng để tạo các bộ tiền khuếch đại âm thanh và video, bộ bù điện áp, bộ lọc chính xác và nhiều hệ thống khác là thành phần của các thiết bị điện tử thông dụng.

    Năm 1963, Robert Widlar - kỹ sư 26 tuổi làm cho hãng Fairchild Semiconductor đã thiết kế IC op-amp nguyên khối đầu tiên, µA702. Nó được bán với giá 300USD. Widlar tiếp tục cải tiến thiết kế và µA709 có giá giảm xuống còn 70USD và đạt được thành công thương mại to lớn. Tiếp theo, Widlar đòi tăng lương. Không được đáp ứng, Widlar nghỉ việc. National Semiconductors chỉ chờ có thế và chiêu mộ ngay người mà sau đó giúp công ty này thao túng lĩnh vực thiết kế IC analog. Năm 1967, Widlar đã tạo ra op-amp tốt hơn cho National, LM101.

    Trong khi các nhà quản lý Fairchild bực bội về đối thủ từ trên trời rơi xuống thì tại phòng nghiên cứu của công ty, David Fullagar, một nhân viên mới, săm soi LM101. Fullagar phát hiện con chip này tuy xuất sắc nhưng có vài khiếm khuyết. Chip này phải gắn thêm tụ ngoài để tránh việc biến dạng tần số. Hơn nữa, do chất lượng chất bán dẫn không ổn định, ngõ vào của chip này quá nhạy với nhiễu.

    Fullagar lao vào thiết kế riêng của mình, xử lý những hạn chế của qui trình sản xuất bán dẫn hiện thời bằng cách gắn thêm 1 tụ 30-picofarad vào trong chip. Giải pháp cải thiện ngõ vào hết sức đơn giản – gắn thêm vài transistor. Mạch gắn thêm này làm cho việc khuếch đại ổn định hơn.

    Fullagar trình thiết kế của mình cho Gordon Moore, trưởng bộ phận nghiên cứu của Fairchild, và thiết kế đó được gửi đến bộ phận sản xuất của công ty. Con chip mới, µA741, trở thành chuẩn mực cho các bộ khuếch đại. Chip này và các biến thể chế tạo bởi các đối thủ của Fairchild đã được bán ra hàng trăm triệu đơn vị. Hiện nay, với số tiền 300USD – mức giá của µA702 ban đầu – bạn có thể mua được 1.000 con chip 741.

    Intersil ICL8038 Waveform Generator

    ICL8038 là bộ sinh sóng sin, vuông, tam giác, răng cưa và xung nhọn, hoạt động khá thất thường, bị chê bai vì khả năng hạn chế. Nhưng các kỹ sư sớm biết cách dùng chip này một cách hiệu quả, nhờ vậy 8038 bán chạy, lên đến hàng trăm triệu đơn vị và hiện diện trong vô số thiết bị – như các bộ tổng hợp âm thanh Moog danh tiếng và "hộp xanh" mà các tay ma mãnh vẫn dùng để qua mặt các công ty điện thoại vào những năm 1980. Intersil ngưng sản xuất 8038 vào năm 2002, nhưng chip này hiện vẫn được người ta tìm để tự chế tạo những thứ nhạc cụ điện tử.

    Western Digital WD1402A UART

    Gordon Bell làm việc tại Digital Equipment Corp. nổi tiếng vì đã đưa ra dòng PDP (Programmed Data Processor) của máy tính mini vào thập niên 1960. Nhưng ông còn phát minh một kỹ thuật ít được biết đến nhưng không kém phần quan trọng: thu/phát bất đối xứng đa năng, hay UART (Universal Asynchronous, Receiver/Transmitter). Bell cần một mạch kết nối máy đánh chữ với PDP, việc này yêu cầu chuyển tín hiệu song song thành tín hiệu tuần tự và ngược lại. Ông đưa ra giải pháp dùng 50 thành phần riêng rẽ. Western Digital, một công ty nhỏ sản xuất chip máy tính tay, đề nghị chế tạo thành 1 chip UART. Western Digital giới thiệu WD1402A năm 1971, các phiên bản khác sớm nối bước sau đó. Giờ đây UART được dùng rộng rãi trong các modem, thiết bị ngoại vi và nhiều thiết bị khác.

    Acorn Computers ARM1 Processor

    Vào đầu thập niên 1980, Acorn Computers là một công ty nhỏ với 1 sản phẩm lớn. Công ty này, trụ sở đặt tại Cambridge, Anh, đã bán hơn 1,5 triệu máy tính để bàn BBC Micro. Và giờ là lúc thiết kế một model mới, các kỹ sư Acorn quyết định chế tạo bộ vi xử lý 32-bit riêng. Họ đặt tên cho nó là Acorn RISC Machine, hay ARM. ARM nhỏ, tiêu thụ ít điện năng và dễ lập trình. Sophie Wilson, người đã thiết kế tập lệnh, vẫn còn nhớ khi họ lần đầu kiểm thử chip trên máy tính. "Chúng tôi gõ PRINT PI ở dấu nhắc lệnh, và nó cho đáp án đúng". Năm 1990, Acorn tách bộ phận ARM ra, và kiến trúc ARM phát triển trở thành bộ xử lý nhúng 32-bit hàng đầu. Hơn 10 tỉ chip ARM đã được dùng trong đủ loại thiết bị, bao gồm một trong số những thất bại bẽ mặt nhất của Apple - thiết bị cầm tay Newton, và một trong những thành công sáng chói nhất của hãng - iPhone.

    Kodak KAF-1300 Image Sensor

    Ra mắt năm 1991, máy ảnh số Kodak DCS 100 có giá 13.000 USDvà cần bộ lưu trữ dữ liệu ngoài nặng 5kg mà người dùng phải vác trên vai. Bộ phận điện tử của máy ảnh này – đặt trong thân máy Nikon F3 – có 1 mẩu kim loại ấn tượng: 1 con chip bằng móng tay có khả năng "bắt" ảnh ở độ phân giải 1.3 megapixel, đủ cho ảnh rửa khổ 10x15 cm. "Vào lúc đó, 1 megapixel là con số kỳ diệu", theo Eric Steven, trưởng nhóm thiết kế con chip này, hiện vẫn còn làm việc cho Kodak. Con chip này – thiết bị tích điện kép 2 pha thực – trở thành nền tảng cho các bộ cảm biến CCD (Charge Coupled Device) sau này, mở ra cuộc cách mạng ảnh số.

    IBM Deep Blue 2 Chess Chip

    Một bên là chất xám nặng 1,5 kg. Bên kia là 480 con chip chơi cờ. Cuối cùng con người đã chịu thua máy tính vào năm 1997 khi Deep Blue, máy tính chơi cờ của IBM, đánh bại vua cờ Garry Kasparov. Mỗi con chip của Deep Blue bao gồm 1,5 triệu transistor, có thể tính 100 triệu nước đi mỗi giây. Năng lực ghê gớm đó, kết hợp với các chức năng lượng giá thông minh, đã giúp Deep Blue đưa ra những đòn quyết định.

    Transmeta Crusoe Processor

    Sức mạnh tính toán đi cùng miếng tản nhiệt khổng lồ, thời gian dùng pin ngắn ngủi và ngốn điện khủng khiếp. Từ đó mục tiêu thiết kế của Transmeta là một BXL tiêu thụ điện ít, qua mặt những BXL của Intel và AMD. Theo thiết kế: phần mềm sẽ dịch các lệnh x86 trực tiếp thành lệnh máy riêng của Crusoe có mức độ song song cao hơn, giúp tiết kiệm thời gian và điện năng. Người ta đã thổi phồng chip này là thứ vĩ đại nhất kể từ khi có silicon, và lúc đó nó thực sự như vậy. Crusoe và BXL tiếp theo của nó, Efficeon "cho thấy việc dịch động nhị phân khả thi về mặt thương mại", theo David Ditzel, nhà đồng sáng lập Transmeta hiện làm việc cho Intel. Không may là con chip này xuất hiện quá sớm, nhiều năm trước khi các máy tính tiêu thụ ít điện năng cất cánh. Cuối cùng, khi Transmeta không đưa ra được những gì hãng hứa hẹn, Intel và AMD – thông qua chính sách bản quyền và luật pháp – đã dập tắt nó.

    Texas Instruments Digital Micromirror Device

    Vào ngày 18/6/1999, Larry Hornbeck đưa vợ đi xem bộ phim Star Wars: Episode 1 – The Phantom Menace tại một rạp chiếu phim ở Burbank, California (Mỹ). Không phải người kỹ sư này hâm mộ Jedi, mà nguyên nhân thực sự là vì chiếc máy chiếu. Nó dùng con chip ánh xạ số mà Hornbeck đã phát minh tại Texas Instruments. Chip này dùng hàng triệu kính hiển vi siêu nhỏ ghép với nhau để hướng tia sáng đi qua ống kính máy chiếu. Giờ đây các máy chiếu phim dùng công nghệ xử lý ánh sáng số này, hay DLP như TI đặt tên, được dùng trong hàng ngàn rạp chiếu phim trên khắp thế giới. Nó cũng được dùng trong TV chiếu hậu, máy chiếu văn phòng và máy chiếu tí hon trong ĐTDĐ.

    Intel 8088 Microprocessor

    Con chip nào đã đưa Intel vào danh sách Fortune 500? Theo Intel đó chính là 8088. Đây là CPU 16-bit mà IBM đã chọn cho dòng máy tính cá nhân (PC) đầu tiên và sau đó thống trị thị trường máy tính để bàn.

    Như là sự kỳ lạ của số phận, con chip này tạo nên cái gọi là kiến trúc x86 lại có tên không gắn với con số "86". 8088 cơ bản chỉ là 1 cải tiến nhỏ của 8086, CPU 16-bit đầu tiên của Intel. Hay như kỹ sư Stephen Morse của Intel từng thốt ra, 8088 là "phiên bản cắt xén của 8086". Đó là vì điểm mới quan trọng của con chip này không chính xác là một bước tiến về mặt công nghệ: 8088 xử lý dữ liệu theo các từ 16-bit, nhưng nó dùng bus dữ liệu ngoài 8-bit.

    Các nhà quản lý của Intel giữ bí mật dự án 8088 cho đến khi thiết kế 8086 gần hoàn tất. Chỉ sau khi chip 8086 có thể làm việc được đầu tiên lộ diện, Intel mới gửi tài liệu 8086 cho một đơn vị thiết kế ở Haifa, Israel, ở đó 2 kỹ sư, Rafi Retter và Dany Star, đã thay đổi chip này sang bus 8-bit.

    Sự điều chỉnh này là một trong những quyết định sáng suốt nhất của Intel. CPU 8088 có 29.000 transistor cần ít chip hỗ trợ hơn và dùng chip rẻ hơn so với 8086, "tương thích hoàn toàn với phần cứng 8-bit, trong khi có khả năng xử lý nhanh hơn và chuyển đổi trơn tru sang các BXL 16-bit", theo như Robert Noyce và Ted Hoff của Intel viết trong một tài liệu năm 1981.
    PC đầu tiên dùng 8088 là Model 5150 của IBM, đây là cỗ máy đơn sắc giá 3.000 USD. Giờ đây hầu hết PC trên thế giới được xây dựng trên các CPU hậu duệ của 8088. Thật không tệ cho một con chip cắt xén!

    Micronas Semiconductor MAS3507 MP3 Decoder

    Bạn có nhớ trước iPod có Diamond Rio PMP300? Ra mắt vào năm 1998, PMP300 nổi ngay lập tức, nhưng rồi sau đó "xì hơi". Mặc dù vậy có một điều đáng nể của thiết bị này là nó được trang bị chip giải mã MP3 MAS2507 – 1 bộ xử lý tín hiệu số dựa trên RISC (Reduce-Instruction-Set-Computing) với tập lệnh được tối ưu cho việc nén và giải nén âm thanh. Chip này, do Micronas phát triển, cho phép Rio dồn khoảng chục bài nhạc vào bộ nhớ flash của nó – quá ít đối với ngày nay nhưng vào lúc đó vừa đủ để cạnh tranh với máy chơi CD cầm tay. Rio và các hậu duệ của nó lót đường cho iPod để giờ đây bạn có thể mang theo mình hàng ngàn bài nhạc và phim trong túi.

    Mostek MK4096 4-Kilobit DRAM

    Mostek không phải là hãng đầu tiên đưa ra DRAM mà đó chính là Intel. Nhưng chip DRAM 4 kilobit của Mostek có một sáng tạo quan trọng - kỹ thuật "ghép địa chỉ”, do Bob Proebstring, đồng sáng lập Mostek, đưa ra. Về cơ bản, chip này sử dụng cùng số chân để truy cập các hàng và cột bộ nhớ bằng cách ghép các tín hiệu định địa chỉ. Kết quả là chip này không cần nhiều chân hơn khi mật độ bộ nhớ tăng và có thể chế tạo với chi phí thấp hơn. Chỉ có một vấn đề nhỏ về tính tương thích. 4096 dùng 16 chân, trong khi các bộ nhớ chế tạo bởi TI, Intel và Motorola có 22 chân.

    Sau đó là một trong những cuộc chiến ly kỳ nhất trong lịch sử DRAM. Mostek đánh cược tương lai của mình vào con chip này, các quan chức của hãng ra sức quảng bá đến khách hàng, đối tác, báo chí, thậm chí cả nhân viên của hãng. Fred K. Beckhusen, người mới vừa được thuê để kiểm tra các thiết bị 4096, nhớ lại Proebsting và giám đốc điều hành L.J. Sevin đã đến ca đêm của anh để thuyết trình vào lúc 2 giờ sáng. "Họ đoan chắc rằng trong 6 tháng tới không còn ai nghe hay quan tâm đến DRAM 22 chân". Họ đã đúng. 4096 và các hậu duệ của nó đã thống trị DRAM nhiều năm trời.
    Đã bỏ nghề về quê chăn gà...

  • #2
    Xilinx XC2064 FPGA

    Trở lại đầu thập niên 1980, các nhà thiết kế chip cố khai thác tối đa mọi transistor trên các vi mạch. Nhưng rồi Ross Freeman có ý tưởng khác hẳn. Ông tạo ra con chip có các transistor hình thành nên những khối logic được tổ chức chặt chẽ mà có thể cấu hình và tái cấu hình bằng phần mềm. Có thể một số transistor không được dùng đến nhưng Freeman cho rằng việc này không quan trọng vì định luật Moore cuối cùng sẽ làm giá transistor trở nên thật rẻ. Đúng như vậy. Để tiếp thị con chip này, được gọi là FPGA (Field-Programmable Gate Array), Freeman đã sáng lập Xilinx. Khi sản phẩm đầu tiên của công ty, XC2064 ra mắt vào năm 1985, các nhân viên được giao 1 nhiệm vụ: họ phải vẽ mạch mẫu dùng các khối luận lý của XC2064, giống như khách hàng Xilinx sẽ làm.

    Hiện nay các con chip FGA – được bán bởi Xilinx và các hãng khác – được dùng trong rất nhiều đồ vật và thiết bị mà không thể kể hết ra đây được.

    Zilog Z80 Microprocessor

    Federico Faggin biết rõ chi phí và nhân lực cần để tiếp thị 1 bộ vi xử lý. Khi làm việc tại Intel ông đã góp phần tạo ra 2 thiết kế có ảnh hưởng lớn về sau: 4004 và 8080. Khi ông lập hãng Zilog cùng một đồng nghiệp tại Intel là Ralph Ungermann, họ quyết định khởi đầu với cái gì đó đơn giản hơn: bộ vi điều khiển 1 chip duy nhất.

    Faggin và Ungermann thuê văn phòng ở thị trấn Los Altos, California (Mỹ), phác thảo kế hoạch kinh doanh và đi tìm nguồn vốn đầu tư. Họ ăn trưa tại một siêu thị gần Safeway với “bánh quy và phó mát Camenmbert”.

    Hai kỹ sư này sớm nhận ra thị trường vi điều khiển đầy những con chip rất tốt. Thậm chí nếu con chip của họ tốt hơn chip của các hãng khác đi nữa thì họ cũng chỉ kiếm được lợi nhuận khiêm tốn và sẽ phải tiếp tục ăn trưa với phó mát và bánh quy. Họ quyết định Zilog phải hướng đến mục tiêu cao hơn - dây chuyền thực phẩm, thế là dự án vi xử lý Z80 ra đời.

    Mục tiêu của dự án này là vượt qua 8080 đồng thời có khả năng tương thích hoàn toàn với phần mềm 8080, để lôi kéo khách hàng khỏi Intel. Nhiều tháng trời, Faggin, Ungermann và Masatoshi Shima, một cựu kỹ sư Intel, 80 giờ mỗi tuần gập người trên bàn vẽ các mạch Z80.

    Nhóm làm việc vất vả suốt từ 1975 đến 1976. Cuối cùng họ có bản mẫu chip vào tháng 3 năm 1976. Z80 cùng thời với con chip 6502 của MOS Technology, và giống con chip đó, nó nổi bật không chỉ vì thiết kế xuất sắc mà còn vì giá cực rẻ (khoảng 450.000đ). Tuy nhiên, việc đưa sản phẩm này ra thị trường mất nhiều công sức. “Đó là thời gian khắc nghiệt”, Faggin nhớ lại.

    Nhưng cuối cùng việc bán chip cũng hanh thông. Z80 hiện diện trong hàng ngàn sản phẩm, bao gồm Osbone I (máy tính có thể “mang đi” đầu tiên), Radio Shack TRS 80 và các máy tính gia đình MSX, cũng như các máy in, máy fax, photocopy, modem và vệ tinh. Zilog hiện vẫn còn sản xuất Z80 được dùng phổ biến trong các hệ thống nhúng. Với cấu hình cơ bản hiện nay nó có giá 5,73 USD – rẻ hơn một bữa ăn trưa với bánh quy và phó mát.

    Sun Microsystems SPARC Processor

    Đầu thập niên 1980, các kiến trúc sư vi xử lý luôn tìm cách để tăng độ phức tạp của tập lệnh CPU nhằm cho phép thực hiện được nhiều tác vụ hơn trong mỗi xung nhịp máy tính. Nhưng rồi 1 nhóm tại đại học California, Berkerley, đề xuất giải pháp ngược lại: đơn giản hóa tập lệnh để có thể xử lý các lệnh với tốc độ cực nhanh nhờ đó thực hiện được nhiều lệnh hơn trong mỗi xung nhịp. Nhóm Berkerley, dẫn dắt bởi David Patterson, gọi giải pháp này là RISC, viết tắt của Reduce Instruction Set Computing.

    Về lý thuyết, RISC có vẻ tuyệt. Nhưng liệu nó có thể thâm nhập thị trường? Sun Microsystems đã đánh cược vào điều đó. Năm 1984, một nhóm kỹ sư của Sun bắt tay phát triển bộ xử lý RISC 32-bit gọi là SPARC (Scalable Processor Architecture). Mục tiêu là dùng các chip này trong dòng máy trạm mới. Scott McNealy, khi đó là giám đốc điều hành của Sun, đã cho rằng “SPARC sẽ đưa Sun từ công ty có doanh thu 500 triệu USD/năm trở thành công ty có doanh thu 1 tỷ USD/năm”,.

    Nhưng nhiều người ngoài Sun nghi ngờ, cho rằng Sun có thể thất bại. Tệ hơn, đội ngũ tiếp thị của Sun còn có một nhận định khủng khiếp: SPARC đánh vần ngược là CRAPS! (trò chơi súc sắc). Các thành viên của nhóm phát triển phải thề không tiết lộ từ đó cho bất kỳ ai thậm chí người trong công ty – vì sợ từ này lọt đến tai của đối thủ tinh quái MIPS Technologies, hãng cũng đang khai thác ý tưởng RISC.

    Phiên bản đầu tiên của SPARC tối giản gồm “20.000 cổng, thậm chí không có các lệnh nhân/chia số nguyên”, theo Robert Garner, kiến trúc sư trưởng của SPARC, hiện nay là nhà nghiên cứu tại IBM. Tuy nhiên, với 10 triệu lệnh mỗi giây, nó chạy nhanh khoảng gấp 3 lần các BXL CISC (complex instruction set computer) hồi đó.

    Sun dùng SPARC để chạy các máy trạm và máy chủ đem lại lợi nhuận nhiều năm sau. Sản phẩm dựa trên SPARC đầu tiên, giới thiệu năm 1987, là dòng máy trạm Sun-4, sản phẩm này nhanh chóng thống trị thị trường và giúp đưa doanh thu của công ty vượt qua mốc 1 tỷ USD mà McNealy tiên đoán.

    Tripath Technology TA2020 AudioAmplifier

    Có một bộ phận những người sành nghe nhạc cho rằng các bộ khuếch đại (ampli) dùng đèn cho âm thanh là tốt nhất và sẽ không có gì hơn được. Vì vậy giới nghe nhạc xôn xao khi nghe có tuyên bố cho rằng ampli lớp D thể rắn (solid-state class-D), được chế tạo bởi 1 công ty ở thung lũng Silicon có tên là Tripath Technology, cho âm thanh không thua ampli đèn. Kỹ thuật của Tripath là dùng 1 hệ thống tạo xung 50MHz để điều khiển ampli. Công ty này khoe rằng sản phẩm TA2020 của mình cho hiệu suất tốt hơn và rẻ hơn bất kỳ ampli thể rắn tương đương nào. TA2020 sử dụng điện năng hiệu quả, không yêu cầu bộ tản nhiệt và có thể chế tạo thành một khối gọn. Phiên bản 15W cấp thấp của TA2020 được bán với giá 3USD (khoảng 48.000đ) và được dùng cho các hệ thống rạp hát gia đình, hệ thống âm thanh cao cấp và TV của các hãng Sony, Sharp, Toshiba và nhiều hãng khác. Sau đó, các công ty bán dẫn lớn theo kịp, tạo các chip tương tự và đưa Tripath vào quên lãng. Tuy nhiên, các con chip của hãng đã tạo nên dấu ấn sâu đậm. Các bộ khuếch đại âm thanh dựa trên TA2020 hiện vẫn còn được các công ty như 41 Hz Audio, Sure Electronics và Winsome Labs chế tạo.

    Amati Communications Overture ADSL Chip Set



    Khi DSL xuất hiện, các modem 56,6 Kbps bị vứt bỏ thảm hại. Hai phần ba người dùng băng rộng trên thế giới - những người dùng DSL nên cám ơn Amati Communications, một công ty nhỏ thuộc đại học Standford. Vào những năm 1990, công ty này đưa ra giải pháp điều chế DSL gọi là đa âm rời rạc, hay DMT (discrete multitone). Về cơ bản đây là phương thức làm cho một đường điện thoại hoạt động như hàng trăm kênh con và cải thiện việc truyền tải dùng giải thuật Robin Hood ngược. John M. Cioffi, người đồng sáng lập Amati và giờ là giáo sư công nghệ tại Standford, giải thích: “Các bit được lấy khỏi những kênh kém nhất để dành cho những kênh tốt nhất”. DMT đánh bại các giải pháp cạnh tranh – bao gồm các giải pháp từ các hãng khổng lồ như AT&T – và trở thành chuẩn toàn cầu cho DSL. Vào giữa thập niên 1990, bộ chip DSL của Amati (1 chip analog, 2 chip kỹ thuật số) được bán với số lượng hết sức khiêm tốn, nhưng đến năm 2000, số lượng tăng lên hàng triệu. Đầu những năm 2000, số lượng bán ra vượt 100 triệu chip mỗi năm. Texas Instruments đã mua lại Amati vào năm 1997.

    Motorola MC68000 Microprocessor

    Motorola tham gia thị trường vi xử lý 16-bit muộn, vì vậy hãng quyết định tạo phong cách riêng. MC6800 16-bit/32-bit “đóng gói” 68.000 transistor, hơn gấp đôi số transistor của Intel 8086. Nó có các thanh ghi nội 32-bit, nhưng bus 32-bit làm đội giá thành, vì vậy 68000 dùng địa chỉ 24-bit và các đường dữ liệu 16-bit. 68000 dường như là bộ xử lý quan trọng cuối cùng được thiết kế dùng bút chì và giấy. Chip 68000 tìm được cách thâm nhập các máy tính Macintosh đầu tiên, cũng như các máy Amiga và Atari ST. Và 68000 có được thành công thương mại với các ứng dụng nhúng trong các máy in laser, máy chơi game và các bộ điều khiển công nghiệp. Nhưng 68000 cũng gây nên một trong những mất mát gần như lớn nhất lịch sử, đó là Pete Best, thành viên của nhóm thiết kế, đã bị mất vị trí tay trống trong nhóm nhạc lừng danh Beatles. IBM đã muốn dùng 68000 trong dòng máy tính cá nhân của mình, nhưng hãng này đã chọn 8088 của Intel vì 68000 lúc đó còn khan hiếm. Nếu không, có thể đã không có đế chế “2 vua” Windows-Intel được biết đến với cái tên Wintel hiện nay.

    Chips & Technologies AT Chip Set

    Vào năm 1984, khi IBM giới thiệu dòng PC 80286 AT, công ty này đã nổi lên như người thống trị hiển nhiên trong địa hạt máy tính để bàn và vẫn muốn duy trì sự thống trị của mình. Nhưng kế hoạch của Big Blue bị sụp đổ bởi một công ty nhỏ xíu có tên Chips & Technologies, có trụ sở tại San Jose, California (Mỹ). C&T đã phát triển 5 chip bắt chước tính năng của bo mạch AT dùng khoảng 100 chip. Các kỹ sư của C&T đã xác định việc duy nhất phải làm đó là đảm bảo bộ chip này tương thích với IBM PC. Các chip của C&T cho phép các nhà sản xuất như Acer của Đài Loan chế tạo máy tính rẻ hơn và kích hoạt quá trình xâm lấn của PC nhái. Intel đã mua lại C&T vào năm 1997.


    Computer Cowboys Sh-Boom Processor

    Hai nhà thiết kế chip vào một quán bar. Đó là Russell H. Fish III và Chuck H. Moore, còn quán bar có tên là Sh-Boom. Đây thật sự là một phần của câu chuyện công nghệ đầy ắp những mối bất hòa và kiện tụng, rất nhiều kiện tụng. Mọi chuyện bắt đầu vào năm 1988 khi Fish và Moore tạo ra 1 BXL kỳ lạ gọi là Sh-Boom. Con chip này có thể chạy nhanh hơn đồng hồ trên bo mạch điều khiển phần còn lại của máy tính. Vì vậy 2 nhà thiết kế này đã tìm ra cách để buộc BXL này chạy đồng hồ bên trong cực nhanh của riêng nó, trong khi vẫn giữ đồng bộ với phần còn lại của máy tính. Sh-Boom không hề đạt được thành công thương mại, sau khi có bằng phát minh liên quan đến con chip này, Moore và Fish chia tay. Fish sau đó bán phát minh của mình cho Patriot Scientific, một công ty có trụ sở tại Carlsbad, California, phát minh này vẫn không đem lại lợi nhuận cho đến khi các quan chức của công ty phát hiện ra một điều: nhiều năm qua kể từ phát minh ra Sh-Boom, tốc độ các BXL đã vượt xa bo mạch chủ, vì vậy hầu như mọi nhà sản xuất máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng đều áp dụng giải pháp giống hệt phát minh của Fish và Moore. Vậy là Patriot xúc tiến một loạt vụ kiện chống lại các công ty Mỹ và Nhật. Việc các con chip của các công ty này có dựa trên ý tưởng Sh-Boom hay không là vấn đề gây tranh cãi. Nhưng từ năm 2006, Patriot và Moore đã thu về trên 125 triệu USD phí bản quyền cấp cho Intel, AMD, Sony, Olympus và các hãng khác. Về cái tên SH-Boom, Moore, giờ làm việc cho IntellaSys ở Cupertino, California, nói: “nó tình cờ nảy sinh từ tên của quán bar nơi Fish và tôi uống rượu”.


    Intel 1702 2048-bit EPROM Chip

    Tia tử ngoại (UV) được biết đến là công cụ diệt vi khuẩn hiệu quả. Nhưng vào thập niên 1970 và 1980, nó cũng được dùng để “diệt” dữ liệu. Các con chip nhớ chỉ đọc có thể lập trình và có thể xoá, được gọi là EPROM, có cửa sổ thạch anh nhỏ qua đó người ta chiếu tia UV để xóa sạch dữ liệu và lập trình lại. Khi Dov Frohman-Bentchkowsky, kỹ sư làm việc cho Intel, giới thiệu ý tưởng này tại hội thảo IEEE International Solid-State Circuits Conference năm 1971, nó đã gây xôn xao trong giới công nghệ. Thời đó, các chip nhớ hoặc hoàn toàn không thể lập trình lại hoặc có thể lập trình lại nhưng bị mất dữ liệu khi mất nguồn (chip ROM được ghi dữ liệu lúc sản xuất và bất biến). Intel 1702 là chip EPROM đầu tiên, nó có thể chứa 2 kilobit dữ liệu.

    Microchip Technology PIC 16C84 Microcontroller

    Những năm đầu thập niên 1990, thế giới vi điều khiển 8-bit thuộc về gã khổng lồ Motorola. Sau đó xuất hiện đối thủ nhỏ bé với cái tên rất thường, Microchip Technology. Microchip đã phát triển PIC 16C84 tích hợp một loại bộ nhớ gọi là EEPROM viết tắt của Electrical Erasable Programmable Read-Only Memory (bộ nhớ chỉ đọc có thể xóa bằng điện). Nó không cần dùng đến tia tử ngoại để xóa như các loại EPROM trước đó. Hơn nữa, chip này có giá chưa đến 5USD, chỉ bằng ¼ giá của các chip cạnh tranh khác mà hầu hết thuộc hãng Motorola. Tính đến nay đã có khoảng 6 tỉ con chip 16C84 được bán ra, nó được dùng trong các thẻ thông minh, thiết bị điều khiển từ xa, thiết bị bắn pháo hoa điều khiển bằng chip, thiết bị hàng không vận hành tự động...

    Toshiba NAND Flash Memory

    Trước khi bộ nhớ flash ra đời, cách duy nhất để lưu cái mà khi đó được cho là lượng dữ liệu lớn là dùng băng từ, đĩa mềm và đĩa cứng. Nhiều công ty cố gắng tạo giải pháp thay thế thể rắn, nhưng các lựa chọn như EPROM và EEPROM (thêm chữ E của “electrical”) không thể lưu lượng dữ liệu lớn một cách kinh tế.

    Năm 1980, một nhà quản lý phân xưởng của Toshiba tên là Fuijio Masuoka đã tuyển 4 kỹ sư cho một dự án bí mật thiết kế một chip nhớ có thể lưu trữ nhiều dữ liệu với giá chấp nhận được. Chiến lược đơn giản: “chi phí của con chip sẽ liên tục giảm khi transistor được thu nhỏ kích thước”, Masuoka cho biết. Ông giờ là giám đốc kỹ thuật của Unisantis Electronics ở Tokyo.

    Nhóm của Masuoka đưa ra nhiều biến thể EEPROM có đặc điểm 1 ô nhớ chỉ gồm 1 transistor. Vào lúc đó, EEPROM thông thường có 2 transistor mỗi ô nhớ. Một khác biệt nhỏ nhưng ảnh hưởng lớn đến chi phí.

    Để có một cái tên hấp dẫn, họ chọn “flash” vì khả năng xóa cực nhanh của chip này. Nếu bạn nghĩ Toshiba vội vã đưa phát minh này vào sản xuất và chờ tiền đổ về thì bạn không hiểu rõ về cách các tập đoàn lớn thường đối xử với những sáng tạo nội bộ. Cấp trên của Masuoka tại Toshiba đã ra lệnh cho ông từ bỏ ý tưởng đó đi.

    Dĩ nhiên Masuoka không làm như vậy. Năm 1984 ông trình tài liệu thiết kế bộ nhớ của mình tại hội thảo quốc tế về thiết bị điện tử của IEEE tổ chức tại San Francisco. Thiết kế này đã gợi ý cho Intel bắt đầu phát triển một dạng bộ nhớ flash dựa trên cổng luận lý NOR. Năm 1988, công ty này đã giới thiệu chip 256 kilobit được dùng trong xe hơi, máy tính và các vật dụng phổ thông khác, tạo nên một công việc kinh doanh tốt đẹp cho Intel.

    Điều đó làm cho Toshiba cuối cùng quyết định đưa phát minh của Masuoka ra thị trường. Chip flash của ông dựa trên công nghệ NAND, cung cấp mật độ lưu trữ lớn hơn nhưng khó sản xuất. Thành công đến vào năm 1989 khi chip flash NAND đầu tiên của Toshiba ra mắt thị trường. Đúng như Masuoka tiên đoán, giá liên tục hạ.

    Kỹ thuật ảnh số mang lại cho flash một lực đẩy lớn vào cuối thập niên 1990 và Toshiba trở thành một trong những tay chơi lớn nhất trong thị trường nhiều tỉ đô la. Tuy nhiên, đồng thời, mối quan hệ của Masuoka với các quan chức khác rạn nứt, và ông rời Toshiba.

    Giờ đây bộ nhớ flash NAND là thành phần quan trọng trong mọi điện thoại di động, máy ảnh, máy chơi nhạc và dĩ nhiên, trong các ổ USB mà dân kỹ thuật thích mang theo mình.

    IBM/Sony/Toshiba Cell Processor (2004)

    Lấy một mẩu silicon; đưa vào đó 1 bộ xử lý PowerPC; thêm 8 bộ đồng xử lý tính toán cực nhanh; và tất cả kết nối qua bus dữ liệu 300-gigabit; kết quả cho ra 1 trong những chip vi xử lý độc đáo nhất trong lịch sử bán dẫn – Cell, được phát triển bởi IBM, Sony và Toshiba. Nó ngốn của các công ty này 400 triệu USD, 400 nhân lực và 4 năm để đưa chip ra thị trường. Được thiết kế để xử lý các luồng MPEG (phim), game 3D và biến đổi Fourier, Cell được dùng trong Sony PlayStation 3, các máy chủ cao cấp và siêu máy tính. Các nhà khoa học máy tính và các nhà lập trình tranh nhau tìm cách khai thác tiềm năng của Cell. 5 năm sau, họ vẫn tiếp tục mày mò.

    Philips Semiconductors TDA93xx TV Processor

    Nhân viên tiếp thị của Philips gọi nó là “bộ xử lý TV trên 1 chip tuyệt vời”. Các kỹ sư Philips thì gọi nó là TDA93xx. Đơn giản đây là chip tích hợp 1 bộ xử lý tín hiệu TV, 1 bộ giải mã thuyết minh và 1 nhân vi điều khiển. Philips tạo ra nó bằng cách kết hợp mạch CMOS (complementary-metal-oxide semiconductor) thông thường với BiMOS analog, một sự kết hợp của công nghệ CMOS và lưỡng cực. Chip này hỗ trợ 3 chuẩn TV quốc tế (PAL, NTSC và SECAM), và bằng cách thêm bộ vi điều khiển, Philips loại bỏ nhu cầu có nhiều thành phần khác nhau. Các nhà sản xuất TV thích con chip này. Bộ phận bán dẫn của Philips, giờ đây được biết đến với cái tên NXP – ước tính đã bán ra trên 850 triệu con chip.

    Lucent WaveLAN IEEE Wi-Fi Chip Set

    Duyệt web không dây trong khi nhấm nháp cà phê thật tuyệt – rất ít người tranh cãi điều này. Nhưng việc tạo ra công nghệ không dây này lại liên quan đến những cuộc tranh cãi nảy lửa giữa các công ty công nghệ hùng mạnh nhất. Trước khi Wi-Fi xuất hiện, có rất nhiều chuẩn không dây “ngự trị” trên không; mỗi công ty dùng một công nghệ riêng của mình. Chỉ có kỹ sư người Hà Lan tên Vic Hayes – được trang bị các kỹ năng ngoại giao tầm cỡ Liên Hợp Quốc (UN) – mới có thể đưa tất cả các công nghệ trên vào “cùng 1 giỏ”. Với tư cách chủ tịch của nhóm IEEE 802.11 Working Group, Hayes tập hợp thành chuẩn mạng không dây mà sẽ hiện diện khắp nơi từ trong nhà, văn phòng, trường học, sân bay và... dĩ nhiên cả tiệm cà phê. Năm 1996, nhóm này đưa ra phiên bản đầu tiên của chuẩn 802.11. Sau đó Hayes mang nó đến phòng công nghệ của công ty mình, Lucent Technologies, và đồng sự của ông trong nhóm cũng làm tương tự. Dĩ nhiên, việc soạn thảo chuẩn là một việc; còn việc hiện thực nó trong silicon lại trong 1 sản phẩm có thể mang lại lợi nhuận là một việc khác. Lucent thuộc số công ty đầu tiên tạo ra bộ chip 802.11 được giới thiệu vào năm 1998 với cái tên WaveLAN IEEE, được bán chung với các router và modem không dây. Bộ chip này sớm được cập nhật để hỗ trợ phiên bản 802.11b cho phép truyền dữ liệu ở tốc độ lên đến 11 megabit/s và giúp công nghệ Wi-Fi trở nên phổ biến. Lucent không thu lợi nhiều từ dòng WaveLAN IEEE; hãng tách bộ phận bán dẫn thành Agere Systems vào năm 2000 và đặt lại tên chip là Orinoco, sau đó được Proxim mua lại. Từ đó, Wi-Fi có được cuộc sống riêng, và giờ đây chip Wi-Fi của các hãng Atheros, Broadcom, Cisco, Intel, Marvell và nhiều hãng khác là thành phần của mọi máy tính.

    AMD Opteron Processor

    Kể từ khi thành lập vào năm 1969, Advanced Micro Devices (AMD) đã có chỗ đứng trên thị trường IC. Những con chip luận lý vào thời kỳ đầu của công ty, rồi đến bộ vi xử lý AMD 9080 (một bản sao của Intel 8080 8-bit) và dòng chip 4-bit Am2900 có thể nhóm lại để tạo các bộ điều khiển 8 hay 16 bit. Nhưng gần đây nhất, chip AMD thật sự nổi bật là BXL Opteron 64-bit. CPU này mở rộng tập lệnh 32-bit sang kiến trúc 64-bit. Hơn thế nữa, nó tích hợp 1 bộ điều khiển bộ nhớ nhúng và 1 kết nối trong chip-chip tốc độ cao. Opteron nhắm đến server, nhưng AMD sớm chuyển sáng tạo của mình thành Athlon 64 nhắm đến các PC phổ thông. Hai BXL AMD mạnh mẽ này cho phép người dùng thực hiện các tác vụ tính toán mà trước đây chỉ dành cho những hệ thống RISC đắt đỏ. Chip này cũng buộc Intel bổ sung những khả năng tương tự cho các BXL x86 của mình.

    IBM POWER Processor

    Bạn đã nghe tới IBM PC. Nhưng có từng nghe về IBM RT? Đó là 1 máy trạm Unix chưa từng đem lại nhiều lợi nhuận cho IBM nhưng là một cột mốc quan trọng đối với Big Blue. Đó là vì RT dùng 1 BXL tiên phong dựa trên khái niệm RISC (RT tượng trưng cho RISC Technology). Từ đó, IBM tiếp tục phát triển các chip RISC khác có ảnh hưởng mạnh về sau: POWER và PowerPC. Hai họ CPU 32-bit này là trái tim của nhiều server, máy trạm và siêu máy tính đình đám của IBM. Dòng sản phẩm server và máy trạm đầu tiên dùng BXL POWER là RISC System/6000 (hay RS/6000) được giới thiệu năm 1990. 4 năm sau, RS/6000 được nâng cấp với BXL PowerPC mới mà IBM đã hợp tác với Apple và Motorola phát triển. Nhiều BXL tiếp sau, bao gồm các CPU chịu được phóng xạ, các phiên bản dành cho máy chơi game như Nintendo Wii, Microsoft Xbox 360 và BXL Cell đa nhân.

    Communications Services RFID

    Mario Cardullo phát minh ra thiết bị nhận dạng tần số vô tuyến (RFID) đầu tiên vào năm 1969. Đây thật sự không phải là 1 con chip mà là 1 mạch có kích cỡ 1 con chip trong đó có 1 bộ thu, 1 bộ phát và bộ nhớ 16 bit không mất. Khi đó không được gọi là RFID. Phát minh của ông được nộp vào năm 1970 và đưa ra vào năm 1973 – được gọi là “hệ thống và dụng cụ thu phát”. Cardullo thành lập Communication Services Corp. để tiếp thị hệ thống này. Ông nghĩ nó có thể dùng cho việc thu phí điện tử và nhiều thứ khác. Communication Services không hề bán được hệ thống này. Năm 1990, bằng phát minh hết hạn. Nhưng Cardullo không phải là người duy nhất nghĩ đến các thiết bị nhận dạng có thể đọc từ xa. Nhiều người khác đã làm việc trên cùng ý tưởng đó để đưa công nghệ RFID ra thị trường. Hiện nay RFID được dùng trong các thẻ thông minh, thẻ ra vào, thẻ đồ đạc và hộ chiếu. Công nghệ này được dùng để giám sát thú nuôi, súc vật, kho hàng và cả con người (các con chip RFID có thể cấy vào cơ thể người).

    RFID được đưa vào danh sách này vì chúng ta không thể bỏ qua RFID, nó hứa hẹn sẽ hiện diện khắp nơi và tạo nên ngành công nghiệp nhiều tỉ USD.

    Danh sách ở trên không sắp xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện, cũng không sắp xếp theo mức độ quan trọng – thật sự các con chip giới thiệu ở đây đều xứng đáng có vị trí trang trọng trong trang sử công nghệ.
    Đã bỏ nghề về quê chăn gà...

    Comment


    • #3
      Em xin được trình bày thêm về nguyên lý con 555 nhé
      Tổng quan về mạch điện tích hợp gốc chuẩn thời gian 555
      I. Hiện nay trên thị trương điện tử chúng ta đã nghe nói rấy nhiều về mạch điện tích hợp vậy mạch điện tích hợp tích hợp là gì ?
      Mạch điện tích hợp IC là tên viết tắt hai chữ đầu của tiếng anh “ Integrated Circuits” nó sử dụng công nghệ bán dẫn màng mỏng hay màng dày hoặc là cả hai công nghệ đó . trong mạch điện có linh kiện , có nguồn và có linh kiện không nguồn kết hợp với nhau tạo thành 1 chip bán dẫn cơ bản có chức năng chính hoàn chỉnh và nó được đặt trong 1 vỏ nhựa bọc kín . So với các mạch thong thường thì việc sử dụng mạch điện tích hợp gọn nhẹ hơn nhiều vì nó có kích thức nhỏ gọn và các linh kiện đi kèm cũng giảm song nó có độ bên không cao so với mạch dung các transittor cồng kềnh
      II . Các đạc điểm của mạch điện gốc chuẩn thời gian 555:
      Mạch điện gốc chuẩn thời gian 555 là sự kết hợp giữa chức năng logic và chức năng tương tự . Ba con số 555 có là do bên trong mạch có ba con điện trở có số trị là 5 K tạo thành nên độ phân áp chính xác cao .
      III. Các chân và chức năng của IC555:
      1. Chân 1 là chân nối đất
      2. Chân 2 là đầu kích . Nếu điện áp đặt ở chân này cao hơn 2/3 Vcc đầu ra sẽ đảm bảo ở mức thấp . Nếu có 1 mạch xung âm đủ lớn đặt ở chân 2 , ở đàu ra chân 3 sẽ lập thành mức cao , đầu kích vẫn giữ ở mức thấp , đẩu ra sẽ giữ ở mức cao
      3. Chân 3 là đẩu ra .
      4. Chân 4 là đầu trở về không , đặt không ( phục vị ) . Nó có thể xoá 0 tín hiệu điều khiển kích ở đầu vào , chân 4 khi không sử dụng được nối với +Vcc nếu chân 4 được nối đất hoặc làm cho điện thế của nó giảm 0 V đầu ra chân 3 và đầu phóng điện chân 7 gần với điện thế đất cũng có nghĩa là đầu ra ở mức thấp . Nếu đầu ra ở mức cao chân 4 nối đất , lập tức đẩu ra sẽ là điện thế thấp .
      5. Chân 5 là đầu diều khiển điện áp . Thông thường giữa nó với đất nối với 1 tụ lọc 10nF hay 0.001uF chân 5 này là cố định nên khi đi dây ta có thể bỏ qua
      6. Chân 6 là trị số ngưỡng , dung để đo kiểm tụ điện áp ở bên ngoài .
      7. Chân 7 là đầu phóng điện , khi đầu ra là mức cao , đầu trị số ngưỡng sẽ quan sát sự tăng điện áp của Vcc, khi đạt tới 2/3 Vcc đầu ra sẽ ở mức thấp
      8. Chân 8 là điện áp nguồn dương . Nó có thể là điện áp bất kỳ từ +3V đến +18V công suất tiêu hao lớn nhất là 600mW
      IV. Các mạch ứng dụng từ 555 :
      Cái mach đầu tiên là sơ đồ mạch tín hiệu tạo xung vuông .
      Nếu bạn muốn đèn sáng tắt tuần hoàn thì hãy gắn đèn vào chân 3 và cấp nguồn cho chân 8 , 1 điện áp 18V . Chúng ta có thể thay đổi chu kỳ hay tần số của mavhj thì hãy dung công thức sau :
      T = 0.7(R1+2R2)C1 f = 1/ T
      Trong đó :
      T là chu kỳ toàn phần tính bằng giây
      F là tần số tính bằng Hz
      R là điện trở tính bằng ôm
      C là tụ điện tính bằng F
      T = Tm + Ts trong đó Tm là thời gian điện áp cao = 0.7(R1+R2)C1
      Và Ts là thời gian điện áp thấp = 0.7R2C1
      |

      Comment


      • #4
        Mình đọc bài gốc trên báo cũng như trang gốc họ trình bày rất tốt.
        bạn copy /paste qua nhưng không giữ lại những gì mà họ trình bày làm vậy mình nghĩ là có gì đó không hay.
        Đây là link qua đọc bài gốc có hình ảnh và trình bày bố cục rõ ràng cho loạt bài rất hay này của báo PCWORLD.
        Phần 1:
        http://www.pcworld.com.vn/pcworld/ma...5f5e5d585e5c56

        Phần 2:
        http://www.pcworld.com.vn/pcworld/ma...5f5e5d585f595b

        Sông dài, Thuyền lớn, Biển rộng bao la.
        Tháo neo ngôn ngữ, lèo lái con thuyền kiến thức nhân loại.

        Comment


        • #5
          Nguyên văn bởi quoc_thaibk Xem bài viết
          Mình đọc bài gốc trên báo cũng như trang gốc họ trình bày rất tốt.
          bạn copy /paste qua nhưng không giữ lại những gì mà họ trình bày làm vậy mình nghĩ là có gì đó không hay.
          Đây là link qua đọc bài gốc có hình ảnh và trình bày bố cục rõ ràng cho loạt bài rất hay này của báo PCWORLD.
          Phần 1:
          http://www.pcworld.com.vn/pcworld/ma...5f5e5d585e5c56

          Phần 2:
          http://www.pcworld.com.vn/pcworld/ma...5f5e5d585f595b
          Đúng là tôi lược bớt hình ảnh vì thấy nhiều quá mà chỉ mang tính minh họa không mấy giá trị, chứ có can thiệp vào bố cục hay nội dung làm gì. Có ghi nguồn gốc ai thích thì ET người ngoài hành tinh hay robot hư hỏng vào tìm hiểu thêm. Với tôi bài này cũng vui, đọc để biết thêm chút nguồn gốc lai lịch của mấy con IC cũng thú vị. Anh đọc, thấy loạt bài rất hay sao không copy hoặc đưa link qua? Chắc tại bận quá.
          Đã bỏ nghề về quê chăn gà...

          Comment


          • #6
            Nếu nói về gốc thì đây mới là gốc

            http://spectrum.ieee.org/semiconduct...ok-the-world/1
            Xem ra pcworld cũng cắt xén ghê gớm.
            Thật sự khi copy qua tôi nghĩ sẽ có những phản hồi kiểu: sao không có 8051, 8086, sao không có chip karaoke của Sony.. như các trang về điện tử khác chứ không phải "sao không có hình" kiểu này.
            Đã bỏ nghề về quê chăn gà...

            Comment

            Về tác giả

            Collapse

            Katecka Tìm hiểu thêm về Katecka

            Bài viết mới nhất

            Collapse

            Đang tải...
            X