Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Máy điện châm ?

Collapse
X
 
  • Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Máy điện châm ?

    Nguyên văn bởi hoangtjeu:
    Cho em hỏi nguyên lý hoạt động máy điện châm???
    Châm cứu (acupuncture) là phương pháp chữa bệnh cổ truyền được áp dụng tại TQ và VN từ rất lâu đời. Dùng kim châm vào các huyệt đạo để kích thích ... có tác dụng chữa khỏi khá nhiều bệnh. Nổi tiếng nhất là giáo sư Ng Tài Thu.
    Điện châm (galvanopuncture): bên cạnh việc châm cứu, còn có sự giúp sức của xung điện.
    Các vấn đề về điện châm được thảo luận tại đây. Mong các bạn tham gia sôi nổi.
    Chưa đỗ tú tài, nên vẫn còn phải đi học.

  • #2
    Nguyên văn bởi HTTTTH Xem bài viết
    Châm cứu (acupuncture) là phương pháp chữa bệnh cổ truyền được áp dụng tại TQ và VN từ rất lâu đời. Dùng kim châm vào các huyệt đạo để kích thích ... có tác dụng chữa khỏi khá nhiều bệnh. Nổi tiếng nhất là giáo sư Ng Tài Thu.
    Điện châm (galvanopuncture): bên cạnh việc châm cứu, còn có sự giúp sức của xung điện.
    Các vấn đề về điện châm được thảo luận tại đây. Mong các bạn tham gia sôi nổi.
    Bố em bị sưng khớp, vừa rồi mới mua 1 bộ xung điện(hình như là bên Quân y sản xuất). Mỗi ngày châm khoảng 30 phút vào vùng khớp sưng, nghe bảo là cũng đỡ.
    Em ở xa nhà, chưa nhìn thấy cái may đó nên không biết nguyên lý hoạt động của nó ra sao? có nguy hại gì ko ???
    Bác nào có thông tin gì thì cho em tham khảo với nhé.
    Thanks
    :-)

    Comment


    • #3
      cho em hỏi dùng máy điện châm có cần kim châm cứu đi kem ko nhi???
      |

      Comment


      • #4
        máy điện châm

        giới thiệu về máy điện châm: Điện châm là phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm cứu với kích thích bằng dòng điện: một chiều, cảm ứng xung đột một pha hay hai pha đều hay không đều.
        Hiện nay châm điện người ta thường dùng máy phát ra xung điện (Blocking ge’ne’rator) có tần số thất điện thế thấp có nhiều đầu dây kích thích, tính năng ổng định an toàn, điều chỉnh thao tác dễ dàng và đơn giản.
        Dùng điện trong châm cứu đầu tiên là nhóm châm cứu ở Pháp (S De Morant, R de la Fuye) khoảng năm 1930.
        Tại Việt Nam điện châm được áp dụng từ năm 1964 tại miền Bắc, được ghi trong các giáo trình “Bài giảng Đông y”, tập I, 1978.
        Tác dụng của điện châm là tác dụng tổng hợp của châm chữa bệnh và tác dụng kích thích bằng dòng điện.
        Tác dụng của châm cứu đã nêu trong phần châm cứu. Ở đây chỉ nêu tác dụng của dòng điện kích thích: đó là dòng điện xung tần số thấp và điện thế thấp.
        Dòng điện xung (Impulse Cireuit) dùng trong điều trị có tần số nhỏ hơn 20.000 Hz điện thế nhỏ hơn 300V, cường độ khoảng một vài mA.
        Dòng điện xung có nhiều loại, có hình thể khác nhau. Hình gai nhọn (dòng Faradic), hình chữ nhật (dòng Leduc), hình lưỡi cày (dòng Lapique), hình sin (dòng dynamique).
        Tác dụng sinh lý của dòng điện xung là do biên độ, tần số hình thể của xung.


        a/ Biên độ:
        Khi có xung điện tác dụng trên thần kinh, không kể hình thể xung là gì thì phải đạt được một cường độ nhất định mới gây được phản ứng của cơ thể. Qua cực điện đặt trên da:
        Với cường độ I < 1mA ta không cảm thấy gì.
        I = 1mA ta thấy như kiến bò
        I = 1,5mA có cảm giác rung
        I = 2mA rung càng mạnh
        I = 3mA các thớ cơ co cùng nhịp
        I = 4mA xuất hiện đau.
        Vùng từ 1 – 4 mA là vùng có hiệu lực, dưới nguồn dòng xung điện không có tác dụng.

        b/ Tần số:
        Là số xung điện trong một giây của dòng điện xung. Cơ thể có khả năng phản ứng với một tần số rất rộng từ thất tới cao.
        Với xung tần số thất ta còn nhận biết được, nhưng với dòng điện xung điện tần số cao tuy ta không còn cảm giác song cơ thể vẫn phản ừng lại bằng những thay đổi vận mạch sinh hóa, sinh lý.
        Xung 20 Hz cảm giác như một vật gì chạm vô da vận động cơ co từng cái – Thực vật: Kích thích thần kinh giao cảm.
        Xung từ 20 – 50 Hz: Cảm giác xung liên tục trên bề mặt da.

        c/ Hình thể:
        Hình thể xung có ảnh hưởng tới tác dụng đó là độ dốc và bề mặt của xung.
        Độ dốc của xung lớn sẽ gây kích thích mạnh và ngược lại.
        Bề mặt của xung rộng có tác dụng nhiều trên chuyển hóa dinh dưỡng và ngược lại.
        Xung hình gai nhọn: Độ dốc sường lên xuống gần thẳng đứng nên kích thích mạnh. Bề mặt xung hẹp nên tác dụng trên chuyển hóa dinh dưỡng yếu.
        Xung hình chữ nhật: Độ dốc sườn lên và xuống thẳng đứng kích thích mạnh bề mặt xung có thể kéo rộng ra nên tùy thời gian xung dài hay ngắn mà tác dụng trên dinh dưỡng chuyển hóa mạnh hay yếu.
        Xung hình lưỡi cày: Sườn lên và xuống thoai thoải phù hợp với tổ chức lành và cả với tổ chức bị thương tổn. Bề mặt xung rộng nên có tác dụng trên dinh dưỡng, chuyển hóa mạnh hơn xung hình gai nhọn.
        Xung hình sin: Sườn lên và xuống từ từ, diện tích xung rộng có tác dụng như hình xung hình lưỡi cày.
        Chỉ định và chống chỉ định:
        Chỉ định:
        Giống như chỉ định của châm cứu nhưng thường dùng nhất là cắt đứt chứng đau của một số bệnh như đau khớp, đau dây thần kinh, cơn đau nội tạng.
        -Chữa tê liệt: Liệt nửa người, bạn liệt dây thần kinh ngoại biên.
        -Châm tê để tiến hành phãu thuật.
        Chống chỉ định;
        Cũng như chỉ định của phương pháp châm cứu.
        Giới thiệu một kiểu máy điện châm.


        Máy điện châm BT-701
        (Châm tê Thượng Hải-1973)
        E: Nguồn điện 6v dùng 4 pin 1,5v.
        R: 2 kΩ
        W2-W5: Chiết áp 10kΩ
        BG: Tranzitor 3AD6
        B: Cuộn dây: L3; L2; L1=L2: L:3, L3, L4, L5, L6, L7 đường kính 0,07mm dây cách điện 1200 vòng, L1 đường kính 0,10mm dây cách điện 300 vòng, L2: đường kính 0,35mm dây cách điện 100 vòng. Lỗi sắt dùng tôn Silic mỗi lá dày 0,35mm cả sấp dày 11mm.
        Ne: Bóng Nêon


        Tính năng
        Tần số: 120-2400Hz
        Điện thế: )-70 volt
        Sóng là loại dao động nghẹt
        Xung dao động nghẹt
        7/ Chôn chỉ: Chôn chỉ là dùng một chất đặc chôn vùi nơi huyệt để duy trì kích thích.
        Đặt trưng của châm là vấn đề kích thích phải đạt tới mức nhất định và có nhiều trường hợp phải kéo dài kích thích đó.
        Người ta đã lần lượt dùng nhiều biện pháp để kéo dài kích thích:
        Thứ nhất là lưu kim trong vài giờ rồi vài ngày. Người ta còn chế tạo ra loại kim đặc biệt Kim vòng (châm hoàn) sau khi kim ấn vô huyệt, chuôi kim là một vòng tròn đặt sát da dùng băng dính dán lên để tránh nhiễm trùng. Nhưng lưu kim thì có lúc phải rút kim ra.
        Thứ đến là Thủy châm: Là tiêm thuốc vô huyệt để gia tăng và kéo dài kích thích tại huyệt. Thời gian kích thích giảm dần khi thuốc khuye61ch tán và tan dần nơi huyệt chân. Như vậy thời gian duy trì kích thích cũng chỉ được một thời gian ngắn từ 15 phút đến nửa giờ.
        Chon chỉ là chôn vùi một thứ chất đặt nơi huyệt để duy trì kích thích. Chỉ khi nào vật đó tiêu tan hết thì mới hết kích thích. Người ta dùng loại chỉ Catgut, một loại chỉ dùng trong phẫu thuật tự tiêu được. Như vậy với chôn chỉ Catgut kích thích được duy trì nơi huyệt vài ngày, nó lại không phải bận tâm đến thầy thuốc là phải rút ra như lưu kim.
        Các sách gốc về châm cứu chưa đề cập tới chôn chỉ. Tính đến sách châm cứu giảng nghĩa của Học viện Nam Kinh năm 1964 cũng chưa đề cập đến chôn chỉ. Chôn chỉ có mạnh như trong thập kỷ 60 của thế kỷ này và đợi tới năm 1974 mới được chính thức ghi trong sách châm cứu của Học viện châm cứu Thượng Hải và cũng trong giai đoạn này chôn chỉ nhập vào Hồng Kông và Việt Nam.

        Tác dụng của chôn chỉ:
        Qua thực nghiệm tại huyệt sau khi chôn chỉ Catgut thấy trong khối cơ thành phần chuyển hóa được nâng cao, thành phần hóa giáng giảm thấp. Các chất Myoglobin, chất đường tăng cao, acid lactic creatinine giảm do đó nâng cai được dinh dưỡng và chuyển hóa nơi cơ bắp. Thông qua quan sát so sánh, sau khi chôn chỉ, thấy gia tăng mạch máu vùng đó, có mạch máu mới sinh lưu lượng máu tăng, tuần hoàn máu được cải thiện đồng thời tăng nhiều sợi liên kết làm thành dính kết với nhau, đối với cơ bắp nhão làm tăng trương lực rồi dưới lớp cơ còn phát hiện nhiều tổ chức thần kinh mới.

        Các hình thức chôn chỉ:
        Theo châm cứu học (Thượng Hải năm 1974) có 3 hình thái:
        -Xâu chỉ (Xuyên tuyến) làm dùng một kim phẫu thuật xâu chỉ Catgut qua nơi huyệt cách hai bên huyệt đó vài mm. Khi kim xâu qua và đưa chỉ Catgut vào thì cắt ở hai đầu trên mặt da.


        -Chô chỉ: (Mai Tuyến) dùng 1 mũi dao chích nhỏ, chích mặt da hơi sâu tới bên dưới rồi vùi chỉ xuống đó. Nếu nơi vạch lớn quá nên khâu lại một mũi cho kín.

        (Theo châm cứu học Thượng Hải năm 1974)
        -Buộc chỉ: (Kết trái) Thao tác giống như xâu chỉ, ở đây khác là có dùng dao mổ rạch một chỗ nhỏ cạnh huyệt rồi dùng pince cầm máu mũi cong thọc qua lỗ chích tới dưới huyệt ấn kích thích tới 40-50 lần rồi sau theo chỗ rạch dùng kim mỗ luồng chỉ Catgut qua huyệt ở tầng sâu dưới tận lớp cơ đi qua một đầu khác rồi đi ra chỗ rạch ban đầu. Buộc hai đầu chỉ với nhau vùi xuống dưới da. Nếu nơi rạch miệng quà rộng thì khâu một mũi. Đắp băng gạc vô trùng lên giữ 5-7 ngày. Như vậy là luồng chỉ Catgut hai lần qua huyệt theo hình số 8 hoặc hình bán nguyệt, hình vòng tròn.


        Tại Việt nam ngoài các hình thức trên, thầy thuốc Vương Sanh ở Sông Bé có áp dụng chôn chỉ gọi là nhu châm (Acupuncture tendre) trình bày tại Câu lạc bộ Y học dân tộc Sở Y tề thành phố Hồ Chí Minh ngày 15-8-1985.
        Cách chôn chỉ của ông Vương Sanh là: Dùng một kim chọc nước não tủy cắt một đoạn Catgut dài khoảng 1cm đặt sẵn trong ống chọc. Sau khi c8a1m kim vào đúng vị trí huyệt có đắc khí mới từ từ đẩy mẫu Catgut vào.
        Kỹ thuật không phải dùng kim phẫu thuật, không phải dùng dao chích, đơn giản và lạ hơn các biện pháp trên.
        Phản ứng sau điều trị:

        1/ Phản ứng bình thường:
        -Tại chỗ: Do kích thích của thương tổn của châm kim và của Catgut, từ 1-5 ngày tại chỗ xảy ra phả ứng viêm vô khuẩn: Sưng, nóng đỏ, đau. Một số trường hợp phản ứng tương đối nặng nơi rạch và vùi Catgut, có chảy ra ít nước vàng, đó đều là phản ứng bình thường, không cần phải xử lý. Nếu nước vàng chảy ra quá nhiều, có thể nặng hết nước vàng dùng bông cồn 70o chùi sạch đắp bông gạc vô khuẩn lên. Sau thủ thuật vùi, tại chỗ nhiệt độ cũng có hơi tăng, có thể kéo dài 3-7 ngày. Nói chung có phản ứng như trên là kết quả tốt.
        -Phản ứng toàn thân: Một số ít người bệnh sau điều trị 4-24 giờ thấy nhiệt độ tăng, thường khoảng 38oC, cá biệt có người bệnh lên tới 39-40oC. Kéo dài từ 2-4 ngày rồi trở lại bình thường. Sau điều trị nói chung tổng số bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính đều có hiện tượng tăng ở mức độ khác nhau.
        2/ Phản ứng khác thường:
        Đau nhức: Sau khi điều trị miệng vết rạch đau nhức hoặc chân tay đau nhức, nếu buôc chỉ chặt quá, nên cắt đứt chỉ Catgut để nới ra.
        -Nhiễm khuẩn: Một số ít người bệnh vì trong lúc điều trị vô khuẩn không tốt hoặc bảo vệ vết rạch ra không tốt làm thành nhiễm khuẩn. Thông thường là sau 3-4 ngày thấy lài sưng đỏ, đau nhức tăng, có khi phát sốt. Nên đắp nóng tại chỗ hoặc dùng kháng sinh.
        -Xuất huyết: Phần nhiều vì kích thích quá mạnh làm rách mạch máu. Nói chung nên băng ép cầm máu, nếu vẫn chảy thì nên khâu cầm máu và rút bỏ Catgut.
        -Dị ứng: Cá biệt có người dị ứng với thuốc tê hoặc với Catgut. Sau khi điều trị thấy tại chỗ phản ứng ngứa sưng đỏ hoặc toàn thân sốt. Cá biệt có người nơi vết rạch rỉ nước vàng rồi chỉ Catgut đùn ra. Đối với người bệnh có điều trị dị ứng.
        -Tổn thương thần kinh: Nếu thần kinh cảm giác bị tổn thương thì thấy rối loạn cảm giác thần kinh đó phân bổ, nếu thần kinh vận động tổn thương thì thấy liệt nhóm cơ chỉ phối, nguyên nhân là do thao tác không đúng, kích thích quá mạnh làm tổn thương tới mạch máu, thần kinh nên lưu ý.

        * *
        *

        Lượt qua các phương pháp kể trên: Châm cứu dài, châm xuyên, châm kim ngắn, lưu kim, thủy châm, điện châm, chôn chỉ. Người thầy thuốc châm cứu chúng ta nên lựa chọn cách châm cứu nào trong khi hành nghề?
        Chúng ta có thể sử dụng tất cả hình thức châm trong khi trị bệnh nhưng chúng ta nên theo một nguyên tắc:
        -Đạt kết quả cao
        -Có ích lợi cho người bệnh và tạo được mối thiện cảm của châm cứu đối với người bệnh.
        Cụ thể là

        1/ Nếu bệnh nhẹ, dễ chữa, không có gì đặc biệt ta nên dùng kim châm cỡ thông thường, châm xong rút kim.
        2/ Nếu gặp bệnh lâu năm, khó trị như chứng liệt đã lâu: liệt mặt, liệt nửa người, liệt hai chi dưới, nên dùng kim dài châm sâu, châm xuyên, luồn kim chạy dài dọc theo đường kính, lưu kim gài để tăng cường kích thích nơi huyệt. Chính đó là tân châm mục đích để trị những bệnh khó, những bệnh lâu lành.
        3/ Nếu bệnh nhân là những trẻ em, những người nhát châm cứu nên dùng kim ngằn để châm nong và có thể châm rút kim ngay hay lưu kim thời gian ngắn.
        4/ Hiện tại nhiều bệnh nhân cứ cho rằng kim châm có tẩm thuốc mới trị được bệnh, có nhiều người hỏi thầy thuốc vể những vấn đề đó. Đó là người bệnh mong ước được châm cứu nhưng đồng thời có thuốc. Với yêu cầu như vậy dùng thủy châm rất phù hợp. Thủy châm là biện pháp dùng thuốc, một chất lỏng để kích thích và duy trì kích thích tại nơi huyệt một thời gian nhất định mà lại còn đồng thời đưa thêm được thuốc cần thiết cho người bệnh. Đó có thể nói là kết hợp YHHĐ với YHDT trên một mũi kim trên một huyệt. Như vậy không những chúng ta cân nhắc chọn huyệt dùng để châm, mà còn chọn thuốc cho đúng, cho phù hợp với bệnh tình của người bệnh.
        -Nếu có sốt, có viêm nên dùng trụ sinh.
        -Nếu có đau nhức nên dùng thuốc giảm đau: Atrapin, Novocaine, Voltarène…
        -Nếu có thuốc đặc trị như: Aminophilin để trị hen phế quan thì cũng có thể dùng để thủy châm.
        -Nếu mệt nhịp tim nhanh có thể dùng thuốc trợ tim mạch.
        Và ở đây tôi thấy cần nhắc lại chỉ chọn dùng thuốc tan trong nước chích bắp thịt. Không uqa1 gây sốt kích thích nơi tiêm, và nên lưu ý đảm bảo sát trùng kỹ nơi tiêm và dụng cụ tiêm.
        5/ Châm kim thường vê tay hiện nay một số ít người bệnh không thích cho rằng kém hiệu quả, mà thực ra vê tay làm thầy thuốc cứ phải khoảng 5-10 phút lại phải vê cho người bệnh một lần để duy trì kích thích. Để giải quyết những mắc mớ này ta phải nhờ cậy đến điện châm. Người bệnh được gài kim và kích thích bằng máy điện châm thì an tâm hơn, tin tưởng hơn. Mà thực tế vê kim bằng điện rất đều, liên tục và muốn nhanh chậm bao nhiêu cũng được. Chính vì vậy, mà đội ngũ châm tê của Việt Nam lúc đầu trong những năm trước là phải tập vê kim mà phải vê kim với tốc độ thất cao mới đạt được cảm giác tê, thì hiện nay với vê kim bằng điện chúng ta muốn đạt tốc độ vê bao nhiêu cũng được, thầy thuốc châm tê chỉ việc đứng coi điện vê kim thay người. Mà lại không vướng víu gì cho phẫu thuật viên khi phải sử dụng những huyệt gần nơi mổ.
        6/ Cuối cùng là vấn đề chôn chỉ hau Nhu châm nói theo thầy thuốc Vương Sanh. Có phải bệnh nào chúng ta cũng dùng chôn chỉ không? Tôi nghĩ phương ngôn ta có câu “Giết gà không dùng dao mổ trâu” vậy thì không nên dùng chôn chỉ cho tất cả các trường hợp bệnh.
        Như trên tôi đã nêu: Chôn chỉ đau hơn, sau khi chôn chỉ còn có những khó chịu cho người bệnh về phản ứng tại chỗ và toàn thân. Đây là không kể những trường hợp chỉ sơ xuất chút ít còn có thể gây viêm tấy, Abces tại chỗ. Vì vậy theo tôi chỉ nên dành chôn chỉ cho những bệnh thật khó trị, những bệnh nan y. Đó là những loại bệnh đã trị nhiều biện pháp mà khôn khỏi, những tổn thương khó hồi phục như thấp khớp đã có biến chứng teo cơ, khớp lệch trục xương, những hen phế quản loại ngoan cố…v…v…những trường hợp này bệnh nhân vui lòng để chúng ta chon chỉ mặc dù biện pháp này có đau hơn, khó chịu hơn.
        Tóm lại phương pháp châm có nhiều, chúng ta cần lựa họn những biện pháp thích hợp cho từng bệnh và cho từng loại bệnh nhân thì sẽ thu được những hiệu quả cao.
        kỹ thuật châm:
        2.1 Ghi cơ điện
        - Ghi điện cơ lần 1 trước điều trị.
        - Ghi điện cơ lần 2 sau 25 ngày tiến hành châm cứu bằng Mãng châm và châm kin thường.
        2.2. Kỹ thuật châm kiểu Mãng châm
        Bước 1: Xác định huyệt đạo Dương lǎng tuyền – Hạ cư hư và Trật biên.
        - Xác định vị trí huyệt Dương lǎng tuyền: Từ điểm giữa của đường thẳng nối lồi củ xương chày và xương má ta đo thẳng xuống một thốn (thốn đông thân).
        - Xác định vị trí huyệt Hạ cự hư: Từ huyệt Tam túc lý đo thẳng xuống 6 thốn (thón đồng thân).
        - Đường thẳng nối Dương lǎng tuyền và Hạ cự hư là huyệt đạo ta cần châm.
        b. Xác định huyệt đạo Trật biên – Hoàn Khiêu:
        Cũng như trên, đầu tiên ta xác định vị trí huyệt vị Trật biên: Từ S4 ta đo ngang sang 3 thốn (đồng thân) là huyệt vị Trật biên.
        - Xác địnhvị trí huyệt Hoàn Khiêu: Điểm 1/3 giữa và 1/3 ngoài nối mấu chuyển lớn xương đùi tới lỗ mẻ xương cùng 4 là huyệt vị Hoàn Khiêu.
        Đường thẳng nối Trật biên và Hoàn Khiêu là huyệt đạo ta cần châm.
        Bước 2: Kỹ thuật châm kim.
        a. Kỹ thuật châm huyệt đạo Dương lǎng tuyền - Hạ cự hư:
        - Dùng tay trái cǎng da để tán vệ khí, tay phải cầm kim đâm nhanh qua da tại huyệt Dương lǎng tuyền. Sau đó một tay đẩy một tay đón đầu kim sao cho hướng kim đi đúng theo đường huyệt đạo đã được xác định.
        b. Kỹ thuật châm huyệt đạo Trật biên - Hoàn Khiêu:
        Tương tự như trên ta dùng tay trái cǎng da tại huyệt Trật biên để tán vệ khí. Tay trái cớm kim đâm nhanh qua da sao cho hướng kim đi đúng theo đường huyệt đạo đã được xác định.
        Bước 3: Sử dụng máy điện châm.
        Dùng máy điện châm M7 sản xuất tại Viện Châm cứu, sau khi châm mắc máy điện châm chúng ta dùng kênh tả với tần số khoảng 40 Hz (tương đương khoảng 2400 xung/phút), tǎng dần cường độ đến khi bệnh nhân chịu được. Thời gian kích thích điện từ 20 ~ 25 phút.
        Last edited by caovanhuong; 17-02-2009, 14:45.

        Comment


        • #5
          Điện châm = châm cứu và xung điện kích thích. Tôi không rành cái này lắm vì chưa bị châm bao giờ. Nhưng tôi thấy người được điều trị bằng điện châm có bị kim chích vào huyệt và người kỹ thuật viên kẹp các đầu kẹp sấu vào đầu kim. Các sợi dây màu đen và đỏ nối từ các kẹp sấu tới máy phát xung.
          Chưa đỗ tú tài, nên vẫn còn phải đi học.

          Comment


          • #6
            Về máy điện châm, các bài viết trên của các bác rất chi tiết. Tôi chỉ muốn góp thêm 1 chút về thiết kế máy để nâng cao độ an toàn cho người (bệnh nhân). Cái này tôi học được thực tế từ việc sửa 1 máy điện châm do Nhật sản xuất (đã từ rất lâu rồi). Vì thời gian đã lâu nên nhãn hiệu máy tôi không còn nhớ và sơ đồ (vẽ lại) cũng đã bị thất lạc.
            Tuy nhiên cái nguyên lý thì mô tả lại cũng dễ hiểu và theo tôi đánh giá là khá hay:
            - Như các bác đều biết, máy điện châm thường có 4 chiết áp (loại núm vặn) để điều chỉnh biên độ xung "châm" vào người.
            - Về nguyên tắc, khi bắt đầu vận hành máy thì bác sĩ (hoặc Kỹ thuật viên) phải đưa 4 chiết áp này về vị trí biên độ xung nhỏ nhất rồi tăng dần lên mức biên độ xung thích hợp để tránh "sốc" hoặc giật quá mạnh cho bệnh nhân. Tuy nhiên thao tác này có thể có lúc bị lãng quên (hoặc bỏ qua) và có thể gây ảnh hưởng xấu trong điều trị châm cứu.
            - Cái thiết kế mạch cung cấp nguồn trong cái máy điện châm kia được điều khiển qua 1 thyristor (cỡ nhỏ như transistor C828) và cực điều khiển được kích mồi qua mạch liên động của 4 tiếp điểm công tắc gắn đồng trục với 4 chiết áp. Chỉ có khác ở đây là 4 tiếp điểm này được "thiết kế" ngược với chiết áp thông thường bán ở chợ Trời: khi chiết áp về vị trí nhỏ nhất (0) thì tiếp điểm đóng lại (chứ không phải ngắt mạch-hở ra như bình thường).
            - Như vậy, khi cả 4 chiết áp về vị trí 0 thì thyristor mới được kích mồi để dẫn và cung cấp điện (DC) cho toàn bộ máy. Nếu vì 1 lý do nào đó mà 1 (hoặc một số chiết áp trong 4 cái) bị quên chưa đưa về 0 (trong lần sử dụng trước) thì sẽ không có xung ra và bắt buộc người vận hành phải đưa cả 4 chiết áp về 0 mới kích hoạt lại máy được. Khi đã mồi (kích mở thyristor) rồi thì mời các bác cứ tự nhiên điều chỉnh thoải mái vì thyristor sẽ dẫn liên tục cho đến khi tắt nguồn cung cấp chính. Chắc hẳn người được "châm" sẽ cảm thấy êm ái dễ chịu hơn nhiều vì tránh bị các cú "sốc" do người dùng bất cẩn.
            - Với thiết kế như vậy tôi nghĩ tính an toàn của máy sẽ được nâng cao hơn và chi phí sản xuất không tốn kém gì hơn nhiều quá. Việc đảo lại thiết kế công tắc liên động của chiết áp (do loại kia có thể khó tìm) các bác có thể dễ dàng dùng thêm mạch điện hoặc dùng biện pháp khác cũng chẳng khó gì.
            Nhân lúc rảnh góp thêm chút thông tin, mời các bác bình luận để tiếp tục cải tiến thêm cho hoàn thiện

            Comment


            • #7
              Máy điện châm cần có độ chính xác, ổn định, tin cạy ... rất cao. Những máy hiện đại đều có các màn hình hiện dạng xung và các cơ chế thăm dò xác định huyệt, sự phản xạ, sự "đắc huyệt", "đắc châm", thay đổi chế độ Bổ / Tả theo chương trình và phản ứng bảo vệ tự động ... Hiện còn rất nhiều vấn đề đang nghiên cứu phát triển thêm như: thay kim đơn giản bằng các kim kiểu "antena" nhận tín hiệu không dây để khỏi phải kẹp nối hàng bó dây lằng nhằng rất nguy hiểm khi tiếp xúc chập chờn, đôi khi đưa kèm thêm "nhạc điệu" để điều trị một số bệnh hoặc thay kim bằng miếng "cao su mềm dẫn điện", dán cho thuận tiện vừa phòng tránh sự cố nhiễm khuẩn ...miếng dán đôi khi được bôi keo thuốc có thể thẩm thấu vào da, đôi khi được làm như cuộn dây antena dẹt, có thể nóng lên ... khi có kích thích...
              Trung quốc rất giỏi châm cứu, xa xưa đã từng chế "Kim mềm" bằng ruột con thỏ cấy lưu vào huyệt "Túc tam lý",.... cho một số dạng bệnh lý dạ dày có liên quan đến thần kinh, bình thường không có gì xảy ra, khi cần chỉ cần day nhẹ bên ngoài da là có tác dụng, kim đó vài năm mới "tiêu hết"
              và cũng từng có "cao thủ" (đã bị bắt giam) dùng đuôi chuột cống tuốt lấy các sợi để làm "chỉ tự tiêu" trong vài giờ, chuyên dùng "khâu vá ..."
              Máy tự lắp, máy đơn giản ... nếu dùng phải rất am hiểu y lý, có kinh nghiệm thật cẩn thận và nên thường trực sẵn sàng "cấp ...."
              |

              Comment


              • #8
                Nguyên văn bởi caovanhuong Xem bài viết
                máy điện châm

                giới thiệu về máy điện châm: Điện châm là phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh của châm cứu với kích thích bằng dòng điện: một chiều, cảm ứng xung đột một pha hay hai pha đều hay không đều.
                Hiện nay châm điện người ta thường dùng máy phát ra xung điện (Blocking ge’ne’rator) có tần số thất điện thế thấp có nhiều đầu dây kích thích, tính năng ổng định an toàn, điều chỉnh thao tác dễ dàng và đơn giản.
                Dùng điện trong châm cứu đầu tiên là nhóm châm cứu ở Pháp (S De Morant, R de la Fuye) khoảng năm 1930.
                Tại Việt Nam điện châm được áp dụng từ năm 1964 tại miền Bắc, được ghi trong các giáo trình “Bài giảng Đông y”, tập I, 1978.
                Tác dụng của điện châm là tác dụng tổng hợp của châm chữa bệnh và tác dụng kích thích bằng dòng điện.
                Tác dụng của châm cứu đã nêu trong phần châm cứu. Ở đây chỉ nêu tác dụng của dòng điện kích thích: đó là dòng điện xung tần số thấp và điện thế thấp.
                Dòng điện xung (Impulse Cireuit) dùng trong điều trị có tần số nhỏ hơn 20.000 Hz điện thế nhỏ hơn 300V, cường độ khoảng một vài mA.
                Dòng điện xung có nhiều loại, có hình thể khác nhau. Hình gai nhọn (dòng Faradic), hình chữ nhật (dòng Leduc), hình lưỡi cày (dòng Lapique), hình sin (dòng dynamique).
                Tác dụng sinh lý của dòng điện xung là do biên độ, tần số hình thể của xung.


                a/ Biên độ:
                Khi có xung điện tác dụng trên thần kinh, không kể hình thể xung là gì thì phải đạt được một cường độ nhất định mới gây được phản ứng của cơ thể. Qua cực điện đặt trên da:
                Với cường độ I < 1mA ta không cảm thấy gì.
                I = 1mA ta thấy như kiến bò
                I = 1,5mA có cảm giác rung
                I = 2mA rung càng mạnh
                I = 3mA các thớ cơ co cùng nhịp
                I = 4mA xuất hiện đau.
                Vùng từ 1 – 4 mA là vùng có hiệu lực, dưới nguồn dòng xung điện không có tác dụng.

                b/ Tần số:
                Là số xung điện trong một giây của dòng điện xung. Cơ thể có khả năng phản ứng với một tần số rất rộng từ thất tới cao.
                Với xung tần số thất ta còn nhận biết được, nhưng với dòng điện xung điện tần số cao tuy ta không còn cảm giác song cơ thể vẫn phản ừng lại bằng những thay đổi vận mạch sinh hóa, sinh lý.
                Xung 20 Hz cảm giác như một vật gì chạm vô da vận động cơ co từng cái – Thực vật: Kích thích thần kinh giao cảm.
                Xung từ 20 – 50 Hz: Cảm giác xung liên tục trên bề mặt da.

                c/ Hình thể:
                Hình thể xung có ảnh hưởng tới tác dụng đó là độ dốc và bề mặt của xung.
                Độ dốc của xung lớn sẽ gây kích thích mạnh và ngược lại.
                Bề mặt của xung rộng có tác dụng nhiều trên chuyển hóa dinh dưỡng và ngược lại.
                Xung hình gai nhọn: Độ dốc sường lên xuống gần thẳng đứng nên kích thích mạnh. Bề mặt xung hẹp nên tác dụng trên chuyển hóa dinh dưỡng yếu.
                Xung hình chữ nhật: Độ dốc sườn lên và xuống thẳng đứng kích thích mạnh bề mặt xung có thể kéo rộng ra nên tùy thời gian xung dài hay ngắn mà tác dụng trên dinh dưỡng chuyển hóa mạnh hay yếu.
                Xung hình lưỡi cày: Sườn lên và xuống thoai thoải phù hợp với tổ chức lành và cả với tổ chức bị thương tổn. Bề mặt xung rộng nên có tác dụng trên dinh dưỡng, chuyển hóa mạnh hơn xung hình gai nhọn.
                Xung hình sin: Sườn lên và xuống từ từ, diện tích xung rộng có tác dụng như hình xung hình lưỡi cày.
                Chỉ định và chống chỉ định:
                Chỉ định:
                Giống như chỉ định của châm cứu nhưng thường dùng nhất là cắt đứt chứng đau của một số bệnh như đau khớp, đau dây thần kinh, cơn đau nội tạng.
                -Chữa tê liệt: Liệt nửa người, bạn liệt dây thần kinh ngoại biên.
                -Châm tê để tiến hành phãu thuật.
                Chống chỉ định;
                Cũng như chỉ định của phương pháp châm cứu.
                Giới thiệu một kiểu máy điện châm.


                Máy điện châm BT-701
                (Châm tê Thượng Hải-1973)
                E: Nguồn điện 6v dùng 4 pin 1,5v.
                R: 2 kΩ
                W2-W5: Chiết áp 10kΩ
                BG: Tranzitor 3AD6
                B: Cuộn dây: L3; L2; L1=L2: L:3, L3, L4, L5, L6, L7 đường kính 0,07mm dây cách điện 1200 vòng, L1 đường kính 0,10mm dây cách điện 300 vòng, L2: đường kính 0,35mm dây cách điện 100 vòng. Lỗi sắt dùng tôn Silic mỗi lá dày 0,35mm cả sấp dày 11mm.
                Ne: Bóng Nêon


                Tính năng
                Tần số: 120-2400Hz
                Điện thế: )-70 volt
                Sóng là loại dao động nghẹt
                Xung dao động nghẹt
                7/ Chôn chỉ: Chôn chỉ là dùng một chất đặc chôn vùi nơi huyệt để duy trì kích thích.
                Đặt trưng của châm là vấn đề kích thích phải đạt tới mức nhất định và có nhiều trường hợp phải kéo dài kích thích đó.
                Người ta đã lần lượt dùng nhiều biện pháp để kéo dài kích thích:
                Thứ nhất là lưu kim trong vài giờ rồi vài ngày. Người ta còn chế tạo ra loại kim đặc biệt Kim vòng (châm hoàn) sau khi kim ấn vô huyệt, chuôi kim là một vòng tròn đặt sát da dùng băng dính dán lên để tránh nhiễm trùng. Nhưng lưu kim thì có lúc phải rút kim ra.
                Thứ đến là Thủy châm: Là tiêm thuốc vô huyệt để gia tăng và kéo dài kích thích tại huyệt. Thời gian kích thích giảm dần khi thuốc khuye61ch tán và tan dần nơi huyệt chân. Như vậy thời gian duy trì kích thích cũng chỉ được một thời gian ngắn từ 15 phút đến nửa giờ.
                Chon chỉ là chôn vùi một thứ chất đặt nơi huyệt để duy trì kích thích. Chỉ khi nào vật đó tiêu tan hết thì mới hết kích thích. Người ta dùng loại chỉ Catgut, một loại chỉ dùng trong phẫu thuật tự tiêu được. Như vậy với chôn chỉ Catgut kích thích được duy trì nơi huyệt vài ngày, nó lại không phải bận tâm đến thầy thuốc là phải rút ra như lưu kim.
                Các sách gốc về châm cứu chưa đề cập tới chôn chỉ. Tính đến sách châm cứu giảng nghĩa của Học viện Nam Kinh năm 1964 cũng chưa đề cập đến chôn chỉ. Chôn chỉ có mạnh như trong thập kỷ 60 của thế kỷ này và đợi tới năm 1974 mới được chính thức ghi trong sách châm cứu của Học viện châm cứu Thượng Hải và cũng trong giai đoạn này chôn chỉ nhập vào Hồng Kông và Việt Nam.

                Tác dụng của chôn chỉ:
                Qua thực nghiệm tại huyệt sau khi chôn chỉ Catgut thấy trong khối cơ thành phần chuyển hóa được nâng cao, thành phần hóa giáng giảm thấp. Các chất Myoglobin, chất đường tăng cao, acid lactic creatinine giảm do đó nâng cai được dinh dưỡng và chuyển hóa nơi cơ bắp. Thông qua quan sát so sánh, sau khi chôn chỉ, thấy gia tăng mạch máu vùng đó, có mạch máu mới sinh lưu lượng máu tăng, tuần hoàn máu được cải thiện đồng thời tăng nhiều sợi liên kết làm thành dính kết với nhau, đối với cơ bắp nhão làm tăng trương lực rồi dưới lớp cơ còn phát hiện nhiều tổ chức thần kinh mới.

                Các hình thức chôn chỉ:
                Theo châm cứu học (Thượng Hải năm 1974) có 3 hình thái:
                -Xâu chỉ (Xuyên tuyến) làm dùng một kim phẫu thuật xâu chỉ Catgut qua nơi huyệt cách hai bên huyệt đó vài mm. Khi kim xâu qua và đưa chỉ Catgut vào thì cắt ở hai đầu trên mặt da.


                -Chô chỉ: (Mai Tuyến) dùng 1 mũi dao chích nhỏ, chích mặt da hơi sâu tới bên dưới rồi vùi chỉ xuống đó. Nếu nơi vạch lớn quá nên khâu lại một mũi cho kín.

                (Theo châm cứu học Thượng Hải năm 1974)
                -Buộc chỉ: (Kết trái) Thao tác giống như xâu chỉ, ở đây khác là có dùng dao mổ rạch một chỗ nhỏ cạnh huyệt rồi dùng pince cầm máu mũi cong thọc qua lỗ chích tới dưới huyệt ấn kích thích tới 40-50 lần rồi sau theo chỗ rạch dùng kim mỗ luồng chỉ Catgut qua huyệt ở tầng sâu dưới tận lớp cơ đi qua một đầu khác rồi đi ra chỗ rạch ban đầu. Buộc hai đầu chỉ với nhau vùi xuống dưới da. Nếu nơi rạch miệng quà rộng thì khâu một mũi. Đắp băng gạc vô trùng lên giữ 5-7 ngày. Như vậy là luồng chỉ Catgut hai lần qua huyệt theo hình số 8 hoặc hình bán nguyệt, hình vòng tròn.


                Tại Việt nam ngoài các hình thức trên, thầy thuốc Vương Sanh ở Sông Bé có áp dụng chôn chỉ gọi là nhu châm (Acupuncture tendre) trình bày tại Câu lạc bộ Y học dân tộc Sở Y tề thành phố Hồ Chí Minh ngày 15-8-1985.
                Cách chôn chỉ của ông Vương Sanh là: Dùng một kim chọc nước não tủy cắt một đoạn Catgut dài khoảng 1cm đặt sẵn trong ống chọc. Sau khi c8a1m kim vào đúng vị trí huyệt có đắc khí mới từ từ đẩy mẫu Catgut vào.
                Kỹ thuật không phải dùng kim phẫu thuật, không phải dùng dao chích, đơn giản và lạ hơn các biện pháp trên.
                Phản ứng sau điều trị:

                1/ Phản ứng bình thường:
                -Tại chỗ: Do kích thích của thương tổn của châm kim và của Catgut, từ 1-5 ngày tại chỗ xảy ra phả ứng viêm vô khuẩn: Sưng, nóng đỏ, đau. Một số trường hợp phản ứng tương đối nặng nơi rạch và vùi Catgut, có chảy ra ít nước vàng, đó đều là phản ứng bình thường, không cần phải xử lý. Nếu nước vàng chảy ra quá nhiều, có thể nặng hết nước vàng dùng bông cồn 70o chùi sạch đắp bông gạc vô khuẩn lên. Sau thủ thuật vùi, tại chỗ nhiệt độ cũng có hơi tăng, có thể kéo dài 3-7 ngày. Nói chung có phản ứng như trên là kết quả tốt.
                -Phản ứng toàn thân: Một số ít người bệnh sau điều trị 4-24 giờ thấy nhiệt độ tăng, thường khoảng 38oC, cá biệt có người bệnh lên tới 39-40oC. Kéo dài từ 2-4 ngày rồi trở lại bình thường. Sau điều trị nói chung tổng số bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính đều có hiện tượng tăng ở mức độ khác nhau.
                2/ Phản ứng khác thường:
                Đau nhức: Sau khi điều trị miệng vết rạch đau nhức hoặc chân tay đau nhức, nếu buôc chỉ chặt quá, nên cắt đứt chỉ Catgut để nới ra.
                -Nhiễm khuẩn: Một số ít người bệnh vì trong lúc điều trị vô khuẩn không tốt hoặc bảo vệ vết rạch ra không tốt làm thành nhiễm khuẩn. Thông thường là sau 3-4 ngày thấy lài sưng đỏ, đau nhức tăng, có khi phát sốt. Nên đắp nóng tại chỗ hoặc dùng kháng sinh.
                -Xuất huyết: Phần nhiều vì kích thích quá mạnh làm rách mạch máu. Nói chung nên băng ép cầm máu, nếu vẫn chảy thì nên khâu cầm máu và rút bỏ Catgut.
                -Dị ứng: Cá biệt có người dị ứng với thuốc tê hoặc với Catgut. Sau khi điều trị thấy tại chỗ phản ứng ngứa sưng đỏ hoặc toàn thân sốt. Cá biệt có người nơi vết rạch rỉ nước vàng rồi chỉ Catgut đùn ra. Đối với người bệnh có điều trị dị ứng.
                -Tổn thương thần kinh: Nếu thần kinh cảm giác bị tổn thương thì thấy rối loạn cảm giác thần kinh đó phân bổ, nếu thần kinh vận động tổn thương thì thấy liệt nhóm cơ chỉ phối, nguyên nhân là do thao tác không đúng, kích thích quá mạnh làm tổn thương tới mạch máu, thần kinh nên lưu ý.

                * *
                *

                Lượt qua các phương pháp kể trên: Châm cứu dài, châm xuyên, châm kim ngắn, lưu kim, thủy châm, điện châm, chôn chỉ. Người thầy thuốc châm cứu chúng ta nên lựa chọn cách châm cứu nào trong khi hành nghề?
                Chúng ta có thể sử dụng tất cả hình thức châm trong khi trị bệnh nhưng chúng ta nên theo một nguyên tắc:
                -Đạt kết quả cao
                -Có ích lợi cho người bệnh và tạo được mối thiện cảm của châm cứu đối với người bệnh.
                Cụ thể là

                1/ Nếu bệnh nhẹ, dễ chữa, không có gì đặc biệt ta nên dùng kim châm cỡ thông thường, châm xong rút kim.
                2/ Nếu gặp bệnh lâu năm, khó trị như chứng liệt đã lâu: liệt mặt, liệt nửa người, liệt hai chi dưới, nên dùng kim dài châm sâu, châm xuyên, luồn kim chạy dài dọc theo đường kính, lưu kim gài để tăng cường kích thích nơi huyệt. Chính đó là tân châm mục đích để trị những bệnh khó, những bệnh lâu lành.
                3/ Nếu bệnh nhân là những trẻ em, những người nhát châm cứu nên dùng kim ngằn để châm nong và có thể châm rút kim ngay hay lưu kim thời gian ngắn.
                4/ Hiện tại nhiều bệnh nhân cứ cho rằng kim châm có tẩm thuốc mới trị được bệnh, có nhiều người hỏi thầy thuốc vể những vấn đề đó. Đó là người bệnh mong ước được châm cứu nhưng đồng thời có thuốc. Với yêu cầu như vậy dùng thủy châm rất phù hợp. Thủy châm là biện pháp dùng thuốc, một chất lỏng để kích thích và duy trì kích thích tại nơi huyệt một thời gian nhất định mà lại còn đồng thời đưa thêm được thuốc cần thiết cho người bệnh. Đó có thể nói là kết hợp YHHĐ với YHDT trên một mũi kim trên một huyệt. Như vậy không những chúng ta cân nhắc chọn huyệt dùng để châm, mà còn chọn thuốc cho đúng, cho phù hợp với bệnh tình của người bệnh.
                -Nếu có sốt, có viêm nên dùng trụ sinh.
                -Nếu có đau nhức nên dùng thuốc giảm đau: Atrapin, Novocaine, Voltarène…
                -Nếu có thuốc đặc trị như: Aminophilin để trị hen phế quan thì cũng có thể dùng để thủy châm.
                -Nếu mệt nhịp tim nhanh có thể dùng thuốc trợ tim mạch.
                Và ở đây tôi thấy cần nhắc lại chỉ chọn dùng thuốc tan trong nước chích bắp thịt. Không uqa1 gây sốt kích thích nơi tiêm, và nên lưu ý đảm bảo sát trùng kỹ nơi tiêm và dụng cụ tiêm.
                5/ Châm kim thường vê tay hiện nay một số ít người bệnh không thích cho rằng kém hiệu quả, mà thực ra vê tay làm thầy thuốc cứ phải khoảng 5-10 phút lại phải vê cho người bệnh một lần để duy trì kích thích. Để giải quyết những mắc mớ này ta phải nhờ cậy đến điện châm. Người bệnh được gài kim và kích thích bằng máy điện châm thì an tâm hơn, tin tưởng hơn. Mà thực tế vê kim bằng điện rất đều, liên tục và muốn nhanh chậm bao nhiêu cũng được. Chính vì vậy, mà đội ngũ châm tê của Việt Nam lúc đầu trong những năm trước là phải tập vê kim mà phải vê kim với tốc độ thất cao mới đạt được cảm giác tê, thì hiện nay với vê kim bằng điện chúng ta muốn đạt tốc độ vê bao nhiêu cũng được, thầy thuốc châm tê chỉ việc đứng coi điện vê kim thay người. Mà lại không vướng víu gì cho phẫu thuật viên khi phải sử dụng những huyệt gần nơi mổ.
                6/ Cuối cùng là vấn đề chôn chỉ hau Nhu châm nói theo thầy thuốc Vương Sanh. Có phải bệnh nào chúng ta cũng dùng chôn chỉ không? Tôi nghĩ phương ngôn ta có câu “Giết gà không dùng dao mổ trâu” vậy thì không nên dùng chôn chỉ cho tất cả các trường hợp bệnh.
                Như trên tôi đã nêu: Chôn chỉ đau hơn, sau khi chôn chỉ còn có những khó chịu cho người bệnh về phản ứng tại chỗ và toàn thân. Đây là không kể những trường hợp chỉ sơ xuất chút ít còn có thể gây viêm tấy, Abces tại chỗ. Vì vậy theo tôi chỉ nên dành chôn chỉ cho những bệnh thật khó trị, những bệnh nan y. Đó là những loại bệnh đã trị nhiều biện pháp mà khôn khỏi, những tổn thương khó hồi phục như thấp khớp đã có biến chứng teo cơ, khớp lệch trục xương, những hen phế quản loại ngoan cố…v…v…những trường hợp này bệnh nhân vui lòng để chúng ta chon chỉ mặc dù biện pháp này có đau hơn, khó chịu hơn.
                Tóm lại phương pháp châm có nhiều, chúng ta cần lựa họn những biện pháp thích hợp cho từng bệnh và cho từng loại bệnh nhân thì sẽ thu được những hiệu quả cao.
                kỹ thuật châm:
                2.1 Ghi cơ điện
                - Ghi điện cơ lần 1 trước điều trị.
                - Ghi điện cơ lần 2 sau 25 ngày tiến hành châm cứu bằng Mãng châm và châm kin thường.
                2.2. Kỹ thuật châm kiểu Mãng châm
                Bước 1: Xác định huyệt đạo Dương lǎng tuyền – Hạ cư hư và Trật biên.
                - Xác định vị trí huyệt Dương lǎng tuyền: Từ điểm giữa của đường thẳng nối lồi củ xương chày và xương má ta đo thẳng xuống một thốn (thốn đông thân).
                - Xác định vị trí huyệt Hạ cự hư: Từ huyệt Tam túc lý đo thẳng xuống 6 thốn (thón đồng thân).
                - Đường thẳng nối Dương lǎng tuyền và Hạ cự hư là huyệt đạo ta cần châm.
                b. Xác định huyệt đạo Trật biên – Hoàn Khiêu:
                Cũng như trên, đầu tiên ta xác định vị trí huyệt vị Trật biên: Từ S4 ta đo ngang sang 3 thốn (đồng thân) là huyệt vị Trật biên.
                - Xác địnhvị trí huyệt Hoàn Khiêu: Điểm 1/3 giữa và 1/3 ngoài nối mấu chuyển lớn xương đùi tới lỗ mẻ xương cùng 4 là huyệt vị Hoàn Khiêu.
                Đường thẳng nối Trật biên và Hoàn Khiêu là huyệt đạo ta cần châm.
                Bước 2: Kỹ thuật châm kim.
                a. Kỹ thuật châm huyệt đạo Dương lǎng tuyền - Hạ cự hư:
                - Dùng tay trái cǎng da để tán vệ khí, tay phải cầm kim đâm nhanh qua da tại huyệt Dương lǎng tuyền. Sau đó một tay đẩy một tay đón đầu kim sao cho hướng kim đi đúng theo đường huyệt đạo đã được xác định.
                b. Kỹ thuật châm huyệt đạo Trật biên - Hoàn Khiêu:
                Tương tự như trên ta dùng tay trái cǎng da tại huyệt Trật biên để tán vệ khí. Tay trái cớm kim đâm nhanh qua da sao cho hướng kim đi đúng theo đường huyệt đạo đã được xác định.
                Bước 3: Sử dụng máy điện châm.
                Dùng máy điện châm M7 sản xuất tại Viện Châm cứu, sau khi châm mắc máy điện châm chúng ta dùng kênh tả với tần số khoảng 40 Hz (tương đương khoảng 2400 xung/phút), tǎng dần cường độ đến khi bệnh nhân chịu được. Thời gian kích thích điện từ 20 ~ 25 phút.
                Bác này nghiên cứu có tài liệu hay quá nhỉ, bác nào còn tài liệu về dòng máy điện châm (châm kim dưới da và miếng dán ngoài da) không cho em tham khảo thêm, đặc biệt về cấu tạo và nguyên lí ạ.
                em cảm ơn.

                Comment


                • #9
                  Nguyên văn bởi thuaimi Xem bài viết
                  Về máy điện châm, các bài viết trên của các bác rất chi tiết. Tôi chỉ muốn góp thêm 1 chút về thiết kế máy để nâng cao độ an toàn cho người (bệnh nhân). Cái này tôi học được thực tế từ việc sửa 1 máy điện châm do Nhật sản xuất (đã từ rất lâu rồi). Vì thời gian đã lâu nên nhãn hiệu máy tôi không còn nhớ và sơ đồ (vẽ lại) cũng đã bị thất lạc.
                  Tuy nhiên cái nguyên lý thì mô tả lại cũng dễ hiểu và theo tôi đánh giá là khá hay:
                  - Như các bác đều biết, máy điện châm thường có 4 chiết áp (loại núm vặn) để điều chỉnh biên độ xung "châm" vào người.
                  - Về nguyên tắc, khi bắt đầu vận hành máy thì bác sĩ (hoặc Kỹ thuật viên) phải đưa 4 chiết áp này về vị trí biên độ xung nhỏ nhất rồi tăng dần lên mức biên độ xung thích hợp để tránh "sốc" hoặc giật quá mạnh cho bệnh nhân. Tuy nhiên thao tác này có thể có lúc bị lãng quên (hoặc bỏ qua) và có thể gây ảnh hưởng xấu trong điều trị châm cứu.
                  - Cái thiết kế mạch cung cấp nguồn trong cái máy điện châm kia được điều khiển qua 1 thyristor (cỡ nhỏ như transistor C828) và cực điều khiển được kích mồi qua mạch liên động của 4 tiếp điểm công tắc gắn đồng trục với 4 chiết áp. Chỉ có khác ở đây là 4 tiếp điểm này được "thiết kế" ngược với chiết áp thông thường bán ở chợ Trời: khi chiết áp về vị trí nhỏ nhất (0) thì tiếp điểm đóng lại (chứ không phải ngắt mạch-hở ra như bình thường).
                  - Như vậy, khi cả 4 chiết áp về vị trí 0 thì thyristor mới được kích mồi để dẫn và cung cấp điện (DC) cho toàn bộ máy. Nếu vì 1 lý do nào đó mà 1 (hoặc một số chiết áp trong 4 cái) bị quên chưa đưa về 0 (trong lần sử dụng trước) thì sẽ không có xung ra và bắt buộc người vận hành phải đưa cả 4 chiết áp về 0 mới kích hoạt lại máy được. Khi đã mồi (kích mở thyristor) rồi thì mời các bác cứ tự nhiên điều chỉnh thoải mái vì thyristor sẽ dẫn liên tục cho đến khi tắt nguồn cung cấp chính. Chắc hẳn người được "châm" sẽ cảm thấy êm ái dễ chịu hơn nhiều vì tránh bị các cú "sốc" do người dùng bất cẩn.
                  - Với thiết kế như vậy tôi nghĩ tính an toàn của máy sẽ được nâng cao hơn và chi phí sản xuất không tốn kém gì hơn nhiều quá. Việc đảo lại thiết kế công tắc liên động của chiết áp (do loại kia có thể khó tìm) các bác có thể dễ dàng dùng thêm mạch điện hoặc dùng biện pháp khác cũng chẳng khó gì.
                  Nhân lúc rảnh góp thêm chút thông tin, mời các bác bình luận để tiếp tục cải tiến thêm cho hoàn thiện
                  Bác xem đây là thiết kế thực tế của máy Nhật ah. Thiết kế này hay ấy chứ. Ở VN có quân đội chế tạo và thương mại dòng sản phẩm này đã lâu rồi thì phải.
                  nay bác nào còn thêm tài liệu các dòng này không ạ, em đang tìm hiểu.hi

                  Comment


                  • #10
                    Nguyên văn bởi Thangbpvn Xem bài viết

                    Bác xem đây là thiết kế thực tế của máy Nhật ah. Thiết kế này hay ấy chứ. Ở VN có quân đội chế tạo và thương mại dòng sản phẩm này đã lâu rồi thì phải.
                    nay bác nào còn thêm tài liệu các dòng này không ạ, em đang tìm hiểu.hi
                    Máy điện châm thì hiện nay đã có quá nhiều loại rồi. Có chăng Bác định nâng cấp thiết kế cho tiện nghi và an toàn hơn thì cứ làm thôi. Nhưng món này chắc vẫn phải cân đối về giá thành sản xuất. Máy nhiều chức năng mà đắt thì chắc cũng khó mà tiêu thụ được.

                    Comment

                    Về tác giả

                    Collapse

                    HTTTTH Còi xương, miệng rộng, ngón tay to Tìm hiểu thêm về HTTTTH

                    Bài viết mới nhất

                    Collapse

                    Đang tải...
                    X